Partner im RedaktionsNetzwerk Deutschland

TẠP CHÍ KINH TẾ

Podcast TẠP CHÍ KINH TẾ
Podcast TẠP CHÍ KINH TẾ

TẠP CHÍ KINH TẾ

aggiungere

Episodi disponibili

5 risultati 24
  • SVB- Credit Suisse : Một cuộc khủng hoảng ngân hàng mới ?
    Trong hai ngày họp 21-22/03/2023 Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ FED phải dập tắt những hoài nghi về mức an toàn của các ngân hàng Mỹ. Các giới chức tiền tệ khẳng định vụ ngân hàng SVB phá sản « đã thuộc về quá khứ ». Ngân hàng Thụy Sĩ Credit Suisse thoát nạn nhờ được UBS mua lại. Hai tín hiệu khả quan đó chưa đủ để trấn an giới đầu tư. Lo ngại khủng hoảng từ Mỹ lan tới phần còn lại trên thế giới tái phát dù rằng Silicon Valley Bank -SVB là ngân hàng đứng hạng thứ 16 ở Mỹ, ít được công chúng biết đến. SVB chủ yếu là ngân hàng của các doanh nghiệp khởi nghiệp (start up) cấp hơn 200 tỷ tín dụng cho các thân chủ : 200 tỷ đô la tín dụng là một « giọt nước » nếu so sánh với trọng lượng của ngân hàng lớn nhất ở Hoa Kỳ là JPMorgan Chase. Tại cái nôi tài chính của Thụy Sĩ là Zurich, Credit Suisse tiếp tục trong tâm bão. Hai trường hợp của SVB và Credit Suisse không trực tiếp liên hệ với nhau nhưng cũng đủ để khuấy động các sàn chứng khoán trên thế giới và trở thành tâm điểm khóa họp của FED. Hai sự kiện đó đang gây thêm khó khăn cho các ngân hàng trung ương trên thế giới khi đang cần tăng lãi suất chỉ đạo trong mục tiêu chống lạm phát.   Không dễ dập tắt những đám cháy đang âm ỉ bùng lên từ ba yếu tố : nghi ngờ về hiệu quả các cơ chế giám sát hoạt động ngân hàng của Mỹ, tăng lãi suất chỉ đạo chống lạm phát và kịch bản các mạng xã hội châm ngòi cho một khủng hoảng ngân hàng lan nhanh và lan rộng từ Mỹ, thế giới không kịp trở tay. Credit Suisse thoát nạn nhưng đẩy ngành tài chính Thụy Sĩ vào bước « vô định » Tại Thụy Sĩ, ngân hàng lớn nhất UBS chính thức thông báo mua lại Credit Suisse với giá là 3 tỷ franc (gần tương đương với 3 tỷ đô la Mỹ). Một khi thủ tục hoàn tất, tổ hợp UBS-Credit Suisse quản lý hơn 5.000 tỷ đô la vốn đầu tư, một số tiền lớn hơn gấp gần 6 lần so với GDP của Thụy Sĩ (800 tỷ đô la năm 2021 theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới). Chính quyền Thụy Sĩ, cũng như các giới chức ngân hàng tại BCE (Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu) hay Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ  hoan nghênh quyết định nói trên. Nhưng trên các sàn chứng khoán tại châu Âu trong phiên giao dịch ngày 20/03/2023 cổ phiếu của các ngân hàng tại Paris hay Frankfurt và cả ở Zurich tiếp tục trượt giá cho đến gần cuối ngày. Cố phiếu của cả Credit Suisse (-66 %) lẫn UBS (- 12 %) cùng mất giá mạnh. Truyền thông Thụy Sĩ nói đến « một ngày đen tối » cho ngân hàng lớn thứ hai là Credit Suisse bị UBS « nuốt chửng » với giá « rẻ như bèo » hơn 3 tỷ đô la. Chính giới ở Berne cho rằng thương vụ này làm xấu đi thêm hình ảnh của Thụy Sĩ, một cột trụ tài chính trên thế giới. Nhìn từ phía các nhà đầu tư, việc UBS thâu tóm Credit Suisse đặt ra nhiều vấn đề. Thứ nhất UBS đang rất thịnh vượng, lãi hơn 7 tỷ đô la trong năm vừa qua, Credit Suisse sẽ là một « gánh nặng » cho UBS và đó là điều mà các cổ đông của UBS không mong muốn.   Điểm thứ hai là do gấp rút « cứu nguy » Credit Suisse, các cổ đông của UBS đã không được tham khảo ý kiến. Có hàng loạt những câu hỏi chưa được giải đáp chẳng hạn như mua lại Credit Suisse ảnh hưởng như thế nào về nhân sự, về cách tổ chức lại các hoạt động của UBS. UBS có 200 chi nhánh trên thế giới, Credit Suisse là 95 và hiện diện tại khoảng 50 quốc gia khác nhau. Chắc chắn là sau cuộc « hôn nhân miễn cưỡng này » sẽ có một số văn phòng đại diện của cả đôi bên phải đóng cửa. Điểm cuối cùng gây lo ngại là trọng lượng quá lớn của UBS và Credit Suisse sau này. Như vừa nói 5.000 tỷ đô la là một số tiền lớn gần gấp 6 lần so với GDP của Thụy Sĩ. Để so sánh, GDP của Pháp trong năm 2022 là 3.200 tỷ đô la. Ngành ngân hàng Mỹ vẫn trong « chảo lửa » Nhìn sang Hoa Kỳ, tình hình vẫn « sôi sục ». Mười ngày sau vụ ngân hàng Silicon Valley Bank phá sản đã có thêm hai ngân hàng khác (Silvergate Bank và Signature Bank chuyên về tiền ảo) đã bị khai tử và một ngân hàng thứ ba là First Republic Bank (trụ sở tại San Francisco-California) đang hấp hối dù đã được nhiều đối tác hỗ trợ, cấp 30 tỷ đô la tiền mặt để có thể tiếp tục cầm cự. Trở lại với điểm khởi đầu từ khi ngân hàng SVB tại bang California, chuyên phục vụ ngành công nghệ ở thung lũng Silocon phá sản. Trên đài RFI Pháp ngữ sáng lập viên công ty tư vấn tài chính Global Sovereign Advisory, trụ sở tại Paris, bà Anne Laure Kiechel trước hết nhấn mạnh đến nét đặc thù của ngành công nghệ cao, của các start-up và liên hệ của số này với ngành tài chính ngân hàng. Anne Laure Kiechel  : « SVB là một ngân hàng chuyên tập trung vào các công ty khởi nghiệp trong thung lũng công nghệ bang California là Silicon Valley. Đây là một tính toán mang tính rủi ro cao khi mà một ngân hàng nhắm vào một lĩnh vực, một loại khách hàng duy nhất trên một phương diện rất đặc biệt là công nghệ cao. Hơn nữa các start up có một đặc điểm. Đó là những thực thể cần huy động vốn để phát triển, nhưng lại cần thời gian để kiếm ra lời. SVB chủ yếu cấp tín dụng cho các công ty khởi nghiệp bằng vốn ủy thác của thân chủ. Khi mà Cục Dự Trữ Liên Bang tăng lãi suất chỉ đạo lâp tức trị giá tài sản của tất cả các ngân hàng đều bị giảm sụt. Nói một cách dễ hiểu, đối với một ngân hàng thương mại, việc Ngân Hàng Trung Ương tăng lãi suất chỉ đạo là tin xấu. Đó là sự thật đối với bất kỳ một nhà băng nào ở khắp mọi nơi trên thế giới ». Theo thẩm định của các giới chức tài chính Mỹ, chỉ cần FED tăng lãi suất chỉ đạo 0,25 điểm, trị giá tài sản của SVB giảm đi mất một tỷ đô la. Từ 2021 Ngân Hàng Tung Ương Mỹ -Cục Dự Trữ Liên Bang đã nhiều lần tăng lãi suất chỉ đạo. Lãi suất đó đang từ gần như 0 % đã tăng lên thành 4,25 %. Vết dầu loang ? Do chỉ giao dịch với giới trong ngành công nghệ, SVB dùng tiền ủy thác của khách hàng đầu tư mua công trái phiếu của chính phủ Mỹ, đó là những công trái phiếu « dài hạn ». Khi cần ngăn chận lạm phát như mọi ngân hàng trung ương trên thế giới Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ tăng lãi suất chỉ đạo. Những người ký gửi tiền vào SVB muốn rút lại vốn, đầu tư nơi khác, chóng kiếm lời hơn. SVB rơi vào hoàn cảnh « thiếu hụt tiền mặt -bank-run » khi mà nhiều thân chủ cùng muốn rút tiền một lúc.  Anne Laure Kiechel : « Một khi biết là đang rơi vào bẫy do lãi suất chỉ đạo tăng lên và không có được những công cụ để bảo vệ vững chắc, giới lãnh đạo của SVB đã cuống lên. Họ đã phải bán đổ bán tháo công trái phiếu đang nắm giữ để có đủ tiền mặt, đáp ứng nhu cầu vay mượn từ phía các công ty khởi nghiệp. SVB lỗ nhiều trong các thương vụ tài chính này. Họ mất hàng triệu bạc. Cho nên phải huy động thêm vốn để lấp vào chỗ trống. Nhưng SVB không đủ sức huy động thêm các nhà đầu tư, không vay thêm được trên thị trường tài chính. Công luận bắt đầu lo ngại và mất tin tưởng vào ngân hàng SVB. Trong ngành ngân hàng, chữ tín là yếu tố quan trọng hàng đầu. SVB rơi vào cái vòng luẩn quẩn và lại phải bán thêm các công trái phiếu đang nắm giữ. Tài sản của SVB bốc hơi». Tương tự như Credit Suisse ngân hàng Mỹ SVB cũng đã bất lực khi cần huy động thêm vốn. Tuy nhiên có một khác biệt lớn : Credit Suisse là 1 trong số 30 ngân hàng lớn nhất thế giới, hiện diện trong nhiều lĩnh vực (từ địa ốc đến bảo hiểm, công nghiệp dược phẩm….). Trái lại SVB đã bỏ tất cả các trứng vào một giỏ công nghệ. Nhờ đó « khủng hoảng » của SVB tương đối được giới hạn trong thế giới công nghệ cao và ở thung lũng Silicon, bang California. Sáng lập viên cơ quan tư vấn tài chính Global Sovereign Advisory từng làm việc tại ngân hàng Lehman Brothers Anne Laure Kiechel so sánh :   Anne Laure Kiechel : « Hiện tại hệ thống ngân hàng không bị đe dọa và chúng ta không ở trong tình trạng như hồi 2008 với vụ ngân hàng Lehman Brothers. Để so sánh, hai ngân hàng này có trọng lượng hoàn toàn khác nhau, SVB chỉ đứng hàng thứ 16 trong số các ngân hàng ở Mỹ với hơn 200 tỷ đô la tài sản. Khác với Lehman Brothers, hoạt động của Silicon Valley Bank giới hạn trong một lĩnh vực là công nghệ với những khách hàng khoanh vùng ở bang California. Do vậy bị phá sản, SVB không gây ra hiệu ứng đô mi nô, không kéo theo những ngân hàng khác, những lĩnh vực khác vào khủng hoảng. Thêm vào đó từ 2008 Mỹ đã thắt chặt luật kiểm soát các hoạt động ngân hàng. Có điều chính quyền Trump năm 2018 đã nới lỏng đạo luật mang tên Dodd -Frank để rồi một số định chế tài chính của Hoa Kỳ như SVB lọt lưới giám sát của các cơ quan nhà nước ». Tạm tránh được hiện tượng đổ dàn Trước mắt cổ phiếu các ngân hàng, nhất là tại châu Âu tiếp tục mất giá nhưng không trong thế « rơi tự dọ » như hồi 2008 sau khi Lehman Brothers thông báo phá sản. Nhưng không chắc là ngành ngân hàng đã thoát hiểm. Laurence Nardon, chủ nhiệm chương trình nghiên cứu tại Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp nêu lên những yếu tố như sau. Sau vụ SVB phải đóng cửa, từ tổng thống Hoa Kỳ đến lãnh đạo Cục Dự Trữ Liên Bang, từ bộ trưởng Tài Chính đến giám đốc  FIDC (Cơ Quan Bảo Hiểm Ký Thác Liên Bang trực thuộc chính phủ Liên Bang Mỹ có trọng tránh giám sát và bảo chứng các khoản tiền ủy thác ở các ngân hàng) đều gia sức trấn an công luận về mức độ an toàn của các ngân hàng Mỹ. Tác động khá thành công nhưng một cuộc khủng hoảng tiềm tàng khác dấy lên từ Credit Suisse ở Thụy Sĩ. Hai sự kiện nói trên kiến công luận nghi ngờ về tính hiệu quả của các cơ chế giám sát, ngành tài chính ngân hàng của Mỹ, của châu Âu tránh để kịch bản Lehman Brothers tái diễn kéo theo nhiều ngân hàng khác vào vòng xoáy khủng hoảng. SVB với chưa đầy 250 tỷ vốn nên đã  « thoát lưới » giám sát của các giới chức ngân hàng Mỹ. Sẽ có thêm bao nhiêu trường hợp tương tự như SVB nữa trong bối cảnh lạm phát tiếp diễn và các ngân hàng trung ương sẽ còn tiếp tục nâng lãi suất chỉ đạo ? Đó là yếu tố thứ hai khiến ngành ngân hàng trong thế bị động. Lý do thứ ba là trong thời đại kỹ thuật số, thông tin được truyền tải nhanh chóng trên các mạng xã hội, SVB rơi vào tâm bão khi rộ lên trên các mạng xã hội những lời đồn đoán về mức độ an toàn của tập đoàn ngân hàng này. Lập tức các thân chủ vôi vã rút tiền khỏi SVB và tập đoàn này rơi vào vòng luẩn quẩn không hồi kết. Đâu đó theo bà Nardon thuộc viện IFRI mạng xã hội cũng là một yếu tố gây ra khủng hoảng ngân hàng ở bang California. Trong trường hợp của Credit Suisse, một tuyên bố vụng về của lãnh đạo ngân hàng này khi ông thanh minh rằng « không liên hệ với SVB » cộng thêm với quyết định không sai của môt trong hai nhà tài trợ chính cho Credit Suisse là ngân hàng Ả Rập Xê Út được diễn giải như một tín hiệu là đối tác Trung Đông này mất tín tưởng vào ngân hàng Thụy Sĩ, đã đổ dầu vào lửa.    Ba yếu tố nói trên cộng lại tạo nên một nỗi lo về mặt tâm lý mà tới nay các phân tích, thống kê dù là khả quan vẫn chưa đủ sức tái tạo niềm tin.
    3/21/2023
    10:10
  • Công nghệ cao mang tính chiến lược : Mỹ thua Trung Quốc
    « Phương Tây đã nhầm về tiềm năng của Bắc Kinh ». Mỹ không còn là trung tâm khoa học và công nghệ thế giới. Liên Âu mờ nhạt chạy theo cuộc đua. Theo chuyên gia về tin học và kỹ thuật số Julien Nocetti Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI và trường đào tạo sĩ quan Saint Cyr, báo cáo của viện nghiên cứu Úc ASPI công bố đầu tháng 3/2023 cho thấy Trung Quốc đang nắm giữ những « chìa khóa an ninh, quân sự, kinh tế ».  Thấy gì từ bước « nhẩy vọt của công nghệ cao » Trung Quốc với những tác động kèm theo ? Ngày 02/03/2023 báo cáo Viện Nghiên Cứu về Chính Sách Chiến Lược Úc ASPI công bố cho thấy Trung Quốc đang dẫn đầu cuộc đua về công nghệ mũi nhọn, đặc biệt là trong những lĩnh vực then chốt  - critical technologies hay còn được gọi là những công nghệ cao mang tính chiến lược - strategic technologies.   Trung Quốc thắng Mỹ 1-0 Trong số 44 lĩnh vực ASPI đưa vào danh sách, Hoa Kỳ chỉ còn chiếm thế thượng phong ở 7 điểm và đã nhường vị trí hàng đầu trong 37 lĩnh vực còn lại cho Trung Quốc. Thế áp đảo của Mỹ khoanh vùng ở công nghệ bán dẫn, tin học lượng tử, tin học hiệu suất cao, công nghệ phóng vệ tinh thu nhỏ hay vac-xin... Trong số 37 « công nghệ chiến lược » ngày nay do Trung Quốc dẫn đầu chủ yếu nhằm phục vụ ngành quốc phòng, không gian, công nghệ thử nghiệm phóng tên lửa siêu thanh, vật liệu tiên tiến, công nghệ robot, trí thông minh nhân tạo … Hơn thế nữa, Trung Quốc đã chiếm thế độc quyền trong một số ngành như sản xuất bình điện, công nghệ viễn thông 6G … Viện Khoa Học Hàn Lâm Bắc Kinh « thường đứng thứ nhất hay thứ nhì kể cả trong những mảng nghiên cứu mà đến nay Mỹ luôn giữ thế áp đảo ». Trung Quốc đã soán ngôi của Hoa Kỳ về công nghệ hydrogen, về kỹ thuật chế biến amoniac để phục vụ trong công nghiệp năng lượng, công nghệ sản xuất vật liệu nano … Từ 2021 Trung Quốc đã qua mặt Mỹ về số lượng hồ sơ đăng ký cấp bằng sáng chế hàng năm. 10 viện nghiên cứu của thế giới được đặt tại Hoa Lục và đây là «nhà máy sản xuất » các công trình nghiên cứu « có ảnh hưởng nhất định » cao gấp 9 lần so với của Mỹ. Thành công đó có được là nhờ « 20 % tác giả của những công trình nghiên cứu đó từng được đào tào tại Mỹ, Canada, Anh, Úc và New Zealand ». Đấy cũng là 5 quốc gia trong nhóm liên minh tình báo Five Eyes.   Dốc sức lực cho lĩnh vực hàng không, không gian Vẫn theo báo cáo của ASPI, gần một nửa các công trình nghiên cứu của Trung Quốc nhằm đóng góp cho công nghệ chế tạo động cơ máy bay tiên tiến, động cơ siêu thanh. 7 trong số 10 trung tâm nghiên cứu hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này thuộc về Trung Quốc. Trả lời đài RFI tiếng Việt, chuyên gia về tin học và kỹ thuật số Julien Nocetti Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI và giảng dậy tại trường đào tạo sĩ quan Saint Cyr, nhấn mạnh liên hệ mật thiết giữa nhu cầu phát triển công nghệ của Trung Quốc với mục tiêu an ninh và quân sự :   Julien Nocetti : « Ngay cả trong lĩnh vực trí thông minh nhân tạo, Trung Quốc quan niệm là phát triển kinh tế phải gắn liền với vế an ninh và quân sự. An ninh, là bởi vì về đối nội Trung Quốc tăng cường các công cụ kiểm soát công dân nước này nhờ công nghệ số. Chẳng hạn như qua hệ thống chấm điểm công dân. Để thưởng hay phạt điểm các công dân, chính quyền cần dựa vào những dữ liệu digital, cần lắp đặt camera thu hình ở khắp mọi nơi. Thông thường Âu, Mỹ xem và khai thác các dữ liệu kỹ thuật số dưới góc độ thương mại hay pháp lý. Châu Âu chẳng hạn chú trọng đến việc phải bảo mật các dữ liệu về thông tin cá nhân… Thế còn ở Trung Quốc thì người ta quan niệm khác. Họ chủ trương là cần phải làm chủ các dữ liệu đó vì lý do an ninh quốc nội, vì Trung Quốc cần tăng cường các biện pháp kiểm soát công dân nước này. Đây là một điểm hết sức quan trọng để hiểu được vì sao công nghệ cao của Trung Quốc đã phát triển mạnh và để rồi giờ đây, đủ sức vươn ra thế giới ».  (…)  Còn về mục đích quân sự thì Bắc Kinh chủ trương đến năm 2030 và nhất là từ nay đến 2049, đúng kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Trung Quốc phải qua mặt được Mỹ cả về mặt quân sự nhờ những loại vũ khí và trang thiết bị càng lúc càng tối tân. Thí dụ như là Bắc Kinh có hẳn cả một chương trình trang bị cho các binh sĩ những bộ y phục « thông minh » gắn đầy bọ điện tử để thu thập thông tin, bắn đi những tín hiệu định vị… Tất cả những yếu tố đó, trong dài hạn sẽ giúp quân đội Trung Quốc chiếm thế thượng phong ».  Nền tảng để trở thành một siêu cường công nghệ thế giới Các đồng tác giả báo cáo của Viện Nghiên Cứu về Chính Sách Chiến Lược Úc kết luận : « Bắc Kinh đã đặt nền tảng để trở thành siêu cường số 1 thế giới về khoa học và công nghệ ». Trong cuộc đua công nghệ, « các nền dân chủ phương Tây đang thua cuộc từ về mặt khoa học, nghiên cứu đến khả năng tuyển mộ nhân tài ». Nguy hiểm ở đây đối với Tây Phương : « Đấy lại là những yếu tố quyết định cho phát triển và việc kiểm soát những công nghệ then chốt của thế giới trong hiện tại và tương lai ».   Trong diễn văn bế mạc kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội Trung Quốc khóa 14 hôm 13/03/2023 ông Tập Cận Bình vừa chính thức được chỉ định thêm nhiệm kỳ thứ 3 ở cương vị chủ tịch nước và chủ tịch Quân Ủy Trung Ương đã tuyên bố : « An ninh là nền tảng của sự phát triển. Ổn định là điều kiện tiên quyết của thịnh vượng ». Mà để đạt được mục tiêu đó thì Trung Quốc cần thúc đẩy để « có một hệ thống phòng thủ quốc gia hiện đại toàn diện (…) quân đội phải là bức vạn lý trường thành bằng thép bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển quốc gia ».   Hai ngày trước, thượng tướng Lý Thượng Phúc (Li Shangfu) được bầu làm bộ trưởng Quốc Phòng. Từng chỉ huy chương trình hàng không vũ trụ của Trung Quốc, việc tướng Phúc đứng đầu bộ Quốc Phòng Trung Quốc cho thấy Bắc Kinh càng lúc càng chú trọng đến phát triển công nghệ phòng thủ hàng không - không gian. Thế giới nhầm về tiềm năng của Trung Quốc ? Trong bài nghiên cứu đăng trên tạp chí địa chính trị Grand Continent ngày 15/02/2023 Alice Pannier thuộc viện IFRI định nghĩa và nêu bật một số nét đặc thù của các công nghệ chiến lược và then chốt. Khái niệm « Công nghệ then chốt -critical technologies » xuất hiện từ thập niên 1990 ở Mỹ hiểu theo nghĩa đó là những « công nghệ mang tính then chốt vì lợi ích quốc gia (…) trong đó bao gồm lợi ích kinh tế về dài hạn ». Đó là những lĩnh vực mà doanh nghiệp tư nhân ít quan tâm. Công nghệ then chốt liên quan đến những lĩnh vực mang tính cạnh tranh ở cấp quốc tế và có thể trở thành mục tiêu của các hoạt động dọ thám. Do vậy ở đây cần có sự can thiệp của Nhà nước. Trung Quốc không là một ngoại lệ. Điểm thứ nhì là khi nói đến « công nghệ cao » hay các « công nghệ mới » đòi hỏi cộng tác - qua đó là mức độ lệ thuộc của một Nhà nước vào các đối tác tư nhân, vào các nguồn cung cấp trong lĩnh vực dân sự, vào các nhà cung cấp trang thiết bị … thường là của nước ngoài. Chính vì thế mà Trung Quốc không chỉ mới đây mà đã từ lâu nhắm tới mục tiêu tự chủ về công nghệ. Julien Nocetti : « Trong 20 năm đầu của thế kỷ 21 chúng ta cứ nghĩ rằng Trung Quốc là một nền công nghiệp sản xuất đại trà, lấy số nhiều làm chủ đạo, hàng rẻ Trung Quốc tràn ngập thị trường thế giới. Trung Quốc là một nhà cung cấp các dịch vụ tầm thường với giá rẻ. Không thể phủ nhận điều này, nhưng bên cạnh đó - mà tiêu biểu nhất là trường hợp của Hoa Vi, thì Trung Quốc đã có những sản phẩm và dịch vụ cao cấp về công nghệ để chinh phục thế giới. Cho dù là Mỹ đã liên tiếp viện lý do an ninh quốc gia để kềm hãm các tập đoàn Trung Quốc, Bắc Kinh vẫn đã có những bước nhẩy vọt về công nghệ vì lợi ích phát triển kinh tế, vì lợi ích chính trị và chiến lược. Một lần nữa Trung Quốc quyết tâm tăng cường sức mạnh cho quân đội quốc gia, để đầu tiên hết là không bị phụ thuộc vào công nghệ tiên tiến của phương Tây và kế tới là trực tiếp cạnh tranh và khuynh đảo thế thượng phong về mặt quân sự của Hoa Kỳ. Bắc Kinh sợ rằng sức mạnh quân sự của Mỹ hiện nay đang nhắm vào Thái Bình Dương và ở những vùng sát cạnh với Trung Quốc, trong đó có một điểm nhậy cảm như là Đài Loan ». Vẫn Julien Nocetti thuộc viện IFRI và của trường sĩ quan Saint Cyr lưu ý báo cáo vừa được viện nghiên cứu Úc ASPI công bố mới chỉ là khúc dạo đầu. Đến khoảng 2030-2040 và thậm chí là 2050 thì những thành công và tham vọng thực thụ của Bắc Kinh về công nghệ sẽ càng rõ rệt hơn nữa bởi hiện tại Trung Quốc vẫn đang trong quá trình « lấp vào những lỗ hổng » và vẫn chưa hoàn toàn tự lập. Theo ông Nocetti, ở thời điểm 2023 « Trung Quốc chưa thể đứng ngang hàng với Mỹ » nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian, bởi ngay cả Hoa Kỳ chứ đừng nói đến Liên Âu cũng khó có thể cạnh tranh với Bắc Kinh khi mà Trung Quốc đã từ hai thập niên qua đẩy mạnh đầu tư vào nhân sự, vào các phương tiện, biến các trường đại học các học viện thành những thỏi nam châm hút công nghệ và kiến thức của phương Tây. 20 % các chuyên gia Trung Quốc công bố các công trình nghiên cứu đáng tin cậy theo báo cáo của ASPI từng được đào tạo ở nước ngoài. Số này đã trở về nước phục vụ. Hệ quả kèm theo là Âu-Mỹ trong thế phải chạy theo sau để bắt kịp Trung Quốc. Một trật tự mới về khoa học-công nghệ    Julien Nocetti : « Về lâu dài, nguy cơ ở đây là tình thế bị đảo ngược, tức là Mỹ và châu Âu phải rượt đuổi để bắt kịp Trung Quốc về mặt công nghệ cao, mà chính những công nghệ mang tính chiến lược đó hiện tại đang là những cái phao đối với các nền kinh tế phương Tây. Tuy nhiên cần phân biệt rõ trường hợp của Hoa Kỳ với Liên Âu. Từ khi lên cầm quyền, tổng thống Biden đã đẩy mạnh đầu tư vào công nghệ cao qua các chương trình đầu tư hàng chục tỷ đô la vào công nghiệp bán dẫn, vào trí thông minh nhân tạo... Về phía Liên Hiệp Châu Âu, những sáng kiến và dự án của châu Âu bị xé lẻ. Bruxelles, Paris hay Berlin đầy tham vọng chính trị để toàn khối này phải tự lập về mặt công nghệ. Hiềm nỗi ngay các thành viên trong Liên Âu cũng là những đối thủ trực tiếp cạnh tranh với nhau để thu hút đầu tư nước ngoài. Mục tiêu và tham vọng tự chủ về công nghệ cao, về kỹ thuật số của Liên Hiệp Châu Âu qua đó thực sự đang bị thách thức ». Trong bài tham luận đăng trên trang mạng của IFRI hôm 15/02/2023 Alice Pannier đơn cử trường hợp của công nghệ lượng tử, một lĩnh vực đáp ứng cùng lúc các lợi ích kinh tế và an ninh. Do mới ở giai đoạn đầu, giới chuyên gia quốc tế cần hợp tác chia sẻ kiến thức. Ở giai đoạn này châu Âu đã mở cửa và dễ dàng cộng tác với các viện nghiên cứu ngoài khối, từ Mỹ đến Trung Quốc Úc, Ấn Độ, Canada ... Nhưng khi chuyển từ khâu nghiên cứu sang giai đoạn áp dụng thực hành, thì theo tác giả bài viết, nhiều vấn đề cụ thể về hợp tác đã đặt ra giữa các nhà nghiên cứu châu Âu với các đối tác Trung Quốc. Trong đó bao gồm từ bản quyền, đến quyền tự do công bố kết quả nghiên cứu... để rồi giờ đây Trung Quốc đang dẫn đầu cuộc đua. Còn trong quá trình hợp tác với các đồng cấp Mỹ, thì châu Âu cũng chóng nhận thấy một sự bất cân đối giữa các viện nghiên cứu hai bên bờ Đại Tây Dương. Một trong những bất cân đối đó là phương tiện tài chính. Tựu chung, hợp tác với các phòng nghiên cứu của Mỹ theo tinh thần có lợi cho cả đôi bên cũng không phải là chuyện dễ !  Như trong nhiều lĩnh vực khác, một lần nữa Châu Âu đang nhường lại cuộc chơi cho Mỹ và Trung Quốc.
    3/14/2023
    9:29
  • Kinh tế tăng trưởng mạnh, Gruzia là một trong những nước hưởng lợi từ chiến tranh Ukraina
    Gruzia đang trở một trong những quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới vào năm 2022, bất chấp khủng hoảng năng lượng và lạm phát. Cuộc chiến tranh Ukraina đã khiến hàng trăm ngàn người rời khỏi Nga và lựa chọn đến Gruzia. Chủ yếu là những người trẻ có trình độ cao và mang theo nhiều tiền mặt.  Nằm ở vị trí chiến lược, Gruzia trở thành con đường kết nối châu Âu và châu Á, trên con đường tơ lụa mới (New Silk Road). Mười năm trở lại đây, nền kinh tế 3,7 triệu dân đã ghi nhận những tăng trưởng đáng kể, từ 3 đến 5 % trước đại dịch Covid-19. Do ngành dịch vụ, du lịch chiếm 60 % trong cơ cấu kinh tế, Gruzia cũng như nhiều nước khác, đã phải chịu tác động nặng nề từ Covid-19 và bước sang giai đoạn phục hồi.     Tăng trưởng đầy "bất ngờ" Với hơn 800 km đường biên giới chung với Nga, các dự báo tăng trưởng của Gruzia được đưa ra không mấy tích cực đầu năm 2022. Tuy nhiên, trường hợp của Gruzia đã khiến các nhà kinh tế “đau đầu”, nhiều lần phải sửa đổi báo cáo trong những tháng cuối năm. Trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt (15/11/2022), nhà kinh tế học Lasha Kavtaradze, trưởng phòng Phân tích và Dự báo Kinh tế Vĩ mô tại viện nghiên cứu Galt & Taggart, có trụ sở tại Tbilisi, cho biết mức tăng trưởng lên hai số là điều mà không ai ngờ tới :  “Vào đầu năm 2022, trước khi chiến tranh Nga – Ukraina xảy ra, chúng tôi đã dự báo rằng tỷ lệ răng trưởng kinh tế có thể đạt 5 %. Tuy nhiên khi chiến tranh bắt đầu, chúng tôi đã phải thay đổi, và hạ thấp tỷ lệ này xuống. Chúng tôi đã tiếp tục thay đổi vài tháng sau đó do số lượng người Nga di cư sang Gruzia gia tăng trong thời gia qua. Chúng tôi ghi nhận dòng tiền từ nước ngoài đổ vào Gruzia tăng mạnh. (Tính đến tháng 10/2022), tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã lên đến 10.2 %.”     Không chỉ cơ quan của ông Lashka, tổ chức tư vấn đầu tư Galt & Taggart, bị bất ngờ, nhiều tổ chức quốc tế khác cũng đã ghi nhận trường hợp tương tự. Ngân hàng Tái cấu trúc và Phát triển châu Âu, vào tháng 03/2022, đã dự đoán rằng cuộc xung đột ở Ukraina sẽ giáng một đòn mạnh vào nền kinh tế Gruzia. Ngân hàng Thế giới cũng dự báo vào tháng 4/2022 rằng tăng trưởng của Gruzia sẽ giảm xuống còn 2,5% từ mức 5,5% ban đầu.    Đến tháng 11/2022, Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) công bố báo cáo về tăng trưởng “không ngờ của Gruzia”, trong khi mà nhiều nước tăng trưởng đi xuống và phải đối mặt với cảnh lạm phát, giá năng lượng do cuộc chiến ở Ukraina. Ngân hàng Trung ương Gruzia cho biết, từ tháng Tư đến tháng Chín 2022, người Nga đã chuyển hơn 1 tỷ đô vào Gruzia, qua chuyển khoản từ ngân hàng hay các dịch vụ chuyển tiền khác. Con số này cao gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2021. Theo báo cáo của tổ chức Transparency, có trụ sở tại Tbilisi, Gruzia, riêng trong năm 2022, Gruzia đã nhận được tổng tộng 3,6 tỷ đô la từ Nga, qua hình thức kiều hối (remittances), du lịch, xuất khẩu hàng hoá…, gấp 4 lần so với 2021 từ các nguồn tương tự. Con số này tương đương với 14,6% GDP của Gruzia vào năm 2022. Trước đó, tỷ lệ cao nhất chỉ đạt 9,9% GDP vào năm 2018.   Chính sách thị thực dễ dàng của Gruzia Các lệnh trừng phạt của phương Tây khiến nền kinh tế Nga bị cô lập, nhiều tập đoàn đa quốc gia đã đóng cửa, ngừng hoạt động ở Nga. Nhiều đường bay quốc tế bị tạm ngưng. Thêm vào đó là lệnh động viên 1 phần cho chiến trường ở Ukraina, hàng trăm ngàn người đã lựa chọn rời khỏi đất nước. Một nước láng giềng, từng thuộc khối Liên Xô cũ là một lựa chọn lý tưởng. Ngoài vị trí địa lý và gần gũi về văn hoá với Nga, Gruzia còn ban hành chính sách nhập cư “tự do”, cho phép người nước ngoài từ nhiều quốc tịch khác nhau, đến sinh sống, làm việc và thành lập doanh nghiệp mà không cần xin thị thực trong vòng 1 năm. Hơn 100 000 người Nga đã đến Gruzia kể từ khi chiến tranh nổ ra. Vào tháng 9 năm ngoái, các trạm kiểm soát biên giới giữa hai nước trong tình trạng quá tải. Các dòng xe nối dài hàng chục km tại các cửa khẩu giữa Nga và Gruzia chờ thông quan.     Theo nhà kinh tế học Lasha Kavtaradze, có 2 đợt nhập cư chính từ Nga vào Gruzia: “Đợt đầu tiên là kể từ khi chiến tranh bắt đầu, ước tính có khoảng 70 000 người Nga đã đến Gruzia Đến mùa hè thì con số này giảm xuống khoảng 50 000. Nhưng từ sau tháng 9, chúng tôi chứng kiến đợt di cư lớn thứ hai từ Nga, thêm khoảng 80 000 người. Một tổ chức nghiên cứu kinh tế của Đức đánh giá rằng ở làn sóng thứ nhất thường là những người di cư có trình độ cao, làm việc trong các lĩnh vực công nghệ, như IT và chi phí sinh hoạt hàng tháng mà họ trả khi di cư tới Gruzia rơi vào khoảng 1700 -3000 đô la. Tuy nhiên làn sóng thứ hai thì được cho là những người có thu nhập thấp, thấp hơn so với những người đến trong đợt 1. Nếu xét đến tác động từ cả hai làn sóng này tạo ra đối với tăng trưởng kinh tế Gruzia, khiến GDP tăng 11 %.”   Theo Reuters, nền kinh tế tương đối khiêm tốn, trị giá khoảng 19 triệu đô la, được biết đến trong khu vực bởi các ngọn núi hùng vĩ và thung lũng nho, đang dần vượt các nền kinh tế mới nổi về tốc độ tăng trưởng như Việt Nam hay các nước xuất khẩu dầu khí, như Kuwait, (giàu có nhờ giá dầu khí tăng cao). Hãng tin Anh trích dẫn nhận định của giám đốc điều hành của ngân hàng TBC ở Gruzia, cho rằng“kinh tế có nhiều tiến triển và tất cả các ngành công nghiệp đều khởi sắc, từ doanh nghiệp nhỏ đến lớn. Đúng là có một cơn bùng nổ !”   Dòng tiền Nga đổ vào Gruzia Theo báo cáo của German Economic Team về tình hình này, những người di cư từ Nga đến Gruzia thường sẽ ở lại khoảng 6 tháng, điều này ít nhiều cũng đã tạo ra tác động tích cực đối với nền kinh tế Gruzia, vốn đang phục hồi sau suy giảm của đại dịch Covid-19. Theo số liệu của Cơ quan thống kê Gruzia, từ tháng 1 đến tháng 11/2022, 12083 doanh nghiệp Nga được đăng ký ở Gruzia, cao gấp 13 lần so với cả năm 2021.Thêm vào đó, vào tháng 09/2022, các ngân hàng tại Gruzia cũng ghi nhận hơn 45 000 tài khoản do người Nga đứng tên, tức là tăng gấp đôi so với những năm trước đó.    Nhà kinh tế học Lasha Kavtaradze nhận xét : “Nếu như nhìn vào tổng thể thu nhập từ di dân, một trong số họ gửi tiền trong ngân hàng và không tiêu chúng. Hơn nữa, Gruzia không chỉ tiếp nhận di dân từ Nga mà còn từ Belarus hay Ukraina, do vậy dòng tiền như vậy giúp thúc đẩy lượng cầu (demand) và đầu tư, cũng như tác động tích cực đến tiền lari của Gruzia, hiện nay đã tăng 12% so với đô la (theo số liệu từ tháng 11/2022).” Gruzia cũng không phải là nước duy nhất được hưởng lợi từ dòng người di cư từ Nga do chiến tranh Ukraina. Nhà kinh tế học Lasha Kavtaradze cho biết Thổ Nhĩ Kỳ, Armenia cũng đã đạt được những tăng trưởng kinh tế đáng kể từ nguồn tài chính tương tự. Các quốc gia này đã phản đối các trừng phạt của phương Tây đối với Nga, đổi lại, thu hút dòng tiền từ Nga. Tăng trưởng kinh tế đạt 11 % tại Armenia và 7 % đối với Thổ Nhĩ Kỳ vào năm vừa qua. Theo CNBC, Thổ Nhĩ Kỳ đã cấp giấy phép cư trú cho 118.826 người Nga, 1/5 doanh số từ bất động sản cho khách nước ngoài là đến từ người Nga.   Giá bất động sản bùng nổ Quay trở lại Gruzia, dòng người di dân đến Gruzia có thể nhìn thấy rõ rệt ở thủ đô Tbilisi, đặc biệt là trong thị trường bất động sản. Tuy nhiên, không hoàn toàn là tác động tích cực. Hãng tin Reuters cho biết giá thuê nhà ở Tbilisi đã tăng 75 % vào năm 2023. Những người thu nhập thấp và sinh viên là những nạn nhân đầu tiên. Ví dụ như trường hợp của cô Nana Shonia, 19 tuổi. Vài tuần trước khi chiến tranh Ukraina nổ ra, cô đã ký hợp đồng thuê một căn hộ tại trung tâm thủ đô, với giá khoảng 150 euro mỗi tháng. Tuy nhiên vào tháng Bảy vừa qua, cô đã bị chủ nhà yêu cầu ra khỏi căn hộ vì giá nhà tăng. Cô Helen Jose, một du học sinh Ấn Độ cũng gặp trường hợp tương tự, đã phải đến ở nhờ nhà bạn vì giá nhà của cô đã tăng gấp đôi trong mùa hè vừa qua. Trả lời hãng tin Reuters, cô cho biết: “Trước kia, tìm nhà rất dễ. Nhưng nay không chỉ tôi mà cả các bạn tôi cũng bị yêu cầu rời đi, bởi vì có những người Nga sẵn sàng trả nhiều hơn chúng tôi”.   Dù giá nhà có cao nhưng giới chuyên gia cho rằng các doanh nghiệp không sẵn sàng đầu tư quá nhiều vào thị trường bất động sản, bởi vì giá nguyên vật liệu và thiết bị cao. Hiện các chủ nhà có thể thu được lợi tức thì vì giá thuê nhà tăng, nhưng lợi nhuận từ việc bán nhà lại không đáng kể. Theo các nhà kinh tế, sự bùng nổ này không kéo dài và khuyến khích chính phủ Gruzia sử dụng nguồn thu thuế lành mạnh để trả nợ và có phương án dự trữ ngoại tệ khi có thể.    Địa chính trị bất ổn Hơn nữa, cuộc xung đột xảy ra vào năm 2008 (tại Nam Ossetia và Abkhazia) giữa Nga và quốc gia từng thuộc Liên Xô cũ khiến một số người lo ngại rằng Gruzia có thể chịu tác động về xã hội cũng như chính trị trong thời gian tới. Nếu như vào tháng 9 năm ngoái, sau khi tổng thống Nga ban lệnh động viên một phần, dòng người ồ ạt từ Nga kéo vào Gruzia, thì ở phía bên kia các trạm kiểm soát biên giới, trên lãnh thổ Gruzia, các nhà hoạt động biểu tình phản đối tiếp nhận người Nga vì cho rằng rằng gián điệp Nga có thể nằm trong số họ.   Viện tư vấn Hudson, có trụ sở tại Washington, Hoa Kỳ, đã cảnh báo rằng “điện Kremlin có thể sử dụng sự hiện diện của những người Nga này như là cái cớ để can thiệp hoặc gây hấn hơn nữa”. Chuyên gia về chính sách kinh tế và xã hội tại viện Phát triển Tự do Thông tin Gruzia (IDFI), Mikheil Kukava nhận định với CNBC rằng, mặc dù phần lớn những người di cư từ Nga thuộc “thế hệ mới” và không phải là mối đe doạ, nhưng điện Kremlin có thể sử dụng đây như là “cái cớ để đến và bảo vệ họ. Vậy thì những tác động tích cực về kinh tế không đáng là bao”.   Về phần mình, chuyên gia kinh tế Lasha Kavtaradze lại cho rằng, tỷ lệ rủi ro là rất thấp đối với những di dân trình độ cao đến từ Nga. Hơn nữa, tuỳ vào tình hình địa chính trị toàn cầu thay đổi ra sao, đa số sẽ không ở lại Gruzia mà có thể đến Hoa Kỳ hày một nước khác, nhiều người cũng đã thay đổi quốc tịch.  
    3/7/2023
    9:31
  • Tái thiết đất nước, Ukraina thách thức cỗ máy chiến tranh của Nga
    Sau hơn 365 ngày chiến tranh, chưa biết khi nào hòa bình vãn hồi trên lãnh thổ Ukraina. Chưa thể thẩm định những thiệt hại vật chất về phía Ukraina sẽ lên đến bao nhiêu, không biết chính xác về nhu cầu tái thiết của quốc gia bị xâm chiếm này. Điều đó không cấm cản Kiev và các doanh nghiệp phương Tây, các định chế tài chính đa quốc gia, giới ngân hàng bắt đầu công cuộc tái thiết Ukraina. Ngày 15/02/2023, hội chợ Tái Thiết Ukraina - diễn ra tại khu triển lãm ở thủ đô Vacxava, Ba Lan. Đây là nhịp cầu giúp cách chính quyền thành phố ở Ukraina tìm kiếm đối tác trong giai đoạn xây dựng lại đất nước. Trong số các bên tham gia, có Andrii Feda, đại diện cho thành phố Mariupol. Theo lời quan chức này 90 % các khu chung cư, 60 % ngôi nhà bị tàn phá. Toàn bộ hệ thống giao thông bị hư hại. Mariupol cần tái lập lại hệ thống điện, nước và ga. Thiệt hại vật chất ước tính lên tới 14,5 tỷ đô la. Mariupol nhìn ra biển Azov vẫn đang bị quân đội Nga chiếm đóng, các công trình xây dựng chỉ có thể khởi động một khi Ukraina chiếm lại thành phố này. Điều đó không cấm cản ông Feda, tại hội chợ Tái Thiết Ukraina khẳng định Mariupol « rồi sẽ hồi sinh, như Vacxava và Dresden đã từng được tái thiết sau Thế Chiến Thứ Hai ». Kiểm kê tình hình tại chỗ  Ngành công nghiệp nặng, luyện kim và hóa chất bị thiệt hại nhiều nhất do phần lớn hoạt động tại miền đông, trong khu vực được mệnh danh là lá phổi công nghiệp của Ukraina. Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc UNDP đánh giá chiến tranh do Nga tiến hành « cướp đi 18 năm phát triển kinh tế » của Ukraina ; 90 % dân số nước này có nguy cơ bị đẩy vào cảnh nghèo khó. Kinh tế Ukraina không bị sụp đổ hoàn toàn trong năm 2022 nhờ viện trợ của quốc tế. Đại học kinh tế Kiev (Kiev School of Economics) thẩm định, cỗ máy chiến tranh của Matxcơva khiến 137 tỷ đô la tài sản của Ukraina - tương đương với 2/3 GDP, tan thành tro bụi ; 50 % các nhà máy điện trên toàn quốc bị hư hại. Ukraina cần 550 tỷ đô la tái thiết đất nước. Trước đó, vào tháng 9/2022 báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới nói đến những « thiệt hại to lớn » và thẩm định rằng sau 100 ngày chiến tranh (tính đến cuối tháng 5/2022) tổn thất về phía Ukraina lên tới 97 tỷ đô la, thêm vào đó 250 tỷ thất thu do cố máy sản xuất và xuất nhập khẩu bị gián đoạn. Từ đó tới nay Nga tăng hỏa lực chủ yếu đánh vào cơ sở hạ tầng thiết yếu của đối phương. 20 % cơ sở y tế của Ukraina đã bị xóa sổ, gần 3.000 trường học bị tàn phá trong đó có trên 800 trường mẫu giáo. Từ tháng 9/2022 Nga chủ trương tấn công vào cơ sở hạ tầng dân dụng thiết yếu : 50 % các nhà máy điện trên toàn quốc bị hư hại. Trả lời đài RFI Pháp ngữ Alain Pilloux, phó thống đốc Ngân Hàng Tái Thiết và Phát Triển Châu Âu BERD cho rằng từ tháng 9 tới nay thiệt hại vật chất mà phía Ukraina hứng chịu đã tăng lên thêm, nhu cầu tái thiết qua đó tăng theo. Alain Pilloux : « Trong một nghiên cứu công bố năm ngoái, Ngân Hàng Thế Giới nói đến 350 tỷ đô la. Từ đó tới nay con số này đã bị đẩy lên cao. Cá nhân tôi ước tính là cộng đồng quốc tế sẽ phải huy động từ 400 đến 500 tỷ đô la giúp Ukraina xây dựng lại đất nước nhưng đó là công trình dài hơi. Nhưng đừng quên rằng Ukraina có những nhu cầu cấp bách phải giải quyết, thí dụ duy trì hệ thống điện lực để bảo đảm sản xuất và sưởi cho người dân. Chỉ riêng khâu này Kiev cần gấp 9  tỷ đô la trong năm nay ». Cũng ông Pilloux nhắc lại Ngân Hàng Tái Thiết và Phát Triển Châu Âu BERD đã giải ngân 1,7 tỷ euro cho Ukraina trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Chủ đích nhằm bảo đảm duy trì một số dịch vụ công cần thiết nhất cho người dân Ukraina, chẳng hạn như bảo đảm về điện, ga hay trong hoạt động ngành đường sắt xe lửa. Kế tới cũng cần hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân sống nhờ xuất khẩu, thí dụ như trong công nghiệp chế biến thực phẩm chẳng hạn.  Câu hỏi kế tiếp là ở thời điểm chiến tranh tiếp diễn và Nga đã đổi chiến lược chủ yếu nhắm vào các cơ sở hạ tầng dân sự của Ukraina thì đâu là nhu cầu của quốc gia bị xâm lược này ? Alain Pilloux : « Thứ nhất là nhu cầu tài trợ cho thâm hụt ngân sách nhà nước, ước tính lên tới 40 tỷ đô la trong năm vừa qua. Gần như là quốc tế đã huy động được số tiền này, chủ yếu là nhờ nỗ lực của Liên Hiệp Châu Âu, của nhóm G7 với nguồn tài trợ lớn nhất là Mỹ. Kế tới là những nhu cầu khẩn cấp xây dựng lại các cơ sở hạ tầng thiết yếu bị hư hại sau các đợt oanh kích của Nga. Tôi muốn nói đến việc phục hồi các nhà máy điện, để bảo đảm cho khu vực sản xuất, cho các hệ thống sưởi của thành phố… BERD đã dành hẳn hơn 500 triệu euro hỗ trợ tập đoàn điện lực quốc gia Ukraina trong năm 2022. Ngoài ra Ukraina cần xây dựng lại cả hệ thống giao thông, tái thiết các khu nhà ở cho dân và những cơ sở hạ tầng để bảo đảm dịch vụ xã hội như trường học, bệnh viện… Trong tương lai xa hơn một chút Ukraina cần được hỗ trợ trong công tác dỡ mìn. Theo thẩm định của Ngân Hàng Thế Giới phí tổn cho riêng khoản này ước tính chừng 70 tỷ đô la. Chúng ta biết rằng hiện tại khoảng 35 % diện tích của Ukraina đang bị gài mìn ». Lãnh đạo Ngân Hàng BERD Alain Pilloux lưu ý, đương nhiên các chương trình viện trợ hay trợ giúp Ukraina tái thiết đòi hỏi chính quyền Kiev phải minh bạch và bảo đảm rằng viện trợ quốc tế không rơi vào túi một số ít các doanh nhân hay chính khách Ukraina :   Alain Pilloux : « Chương trình hỗ trợ Ukraina hiện nay của IMF, kế hoạch viện trợ của Liên Âu luôn coi việc bài trừ tham nhũng là một điều kiện. Ngân Hàng Tái Thiết và Pháp Triển Châu Âu cũng rất chú trọng đến vế này. Bài trừ tham nhũng là một điều kiện quan trọng quyết định về số tiền viện trợ cũng như là về tiến độ giải nhân các khoản viện trợ quốc tế cho Ukraina ». Viện trợ quốc tế : với 100 tỷ đô la, Âu - Mỹ trên tuyến đầu Trong 12 tháng chiến tranh, cộng đồng quốc tế đã tổ chức 4 hội nghị các nhà tài trợ cho Ukraina (Lugano, Vacxava, Berlin và Paris). Gần đây nhất tại Paris, hôm 13/12/2022 hơn 40 quốc gia và các tổ chức quốc tế đã cam kết tặng không 1 tỷ đô la giúp chính quyền Kiev « trải qua mùa đông này » nhất là vào lúc mà bên xâm lược là Nga từ tháng 9/2022 tập trung tấn công vào các nhà máy điện của Ukraina để làm tê liệt đối phương, đẩy cuộc sống của người dân Ukraina thêm khó khăn hòng gây chia rẽ công luận. Na Uy đầu tháng 2/2023 cam kết viện trợ cho Kiev gần 7 tỷ đô la trong 5 năm sắp tới, dưới hình thức viện trợ nhân đạo và quân sự. Liên Âu cam kết 52 tỷ euro cho Ukraina chủ yếu là « viện trợ tài chính » giúp kinh tế Ukraina duy trì hoạt động trong thời chiến. Một mình nước Mỹ cũng hứa giúp chính quyền Kiev một số tiền gần 50 tỷ đô la nhưng lại tập trung vào viện trợ quân sự. Lĩnh vực tư nhân Bên cạnh các khoản trợ giúp xuất phát từ các định chế đa quốc gia như Liên Hiệp Châu Âu, Ngân Hàng Tái Thiến và Phát Triển Châu Âu, Ngân Hàng Đầu Tư Châu Âu… thì còn có rất nhiều các đối tác tư nhân. Thông tín viên RFI Aabla Jounaidi đến thành phố Lyman vùng Donbass miền đông Ukraina và Irpin ngoại ô thủ đô Kiev. Tại Lyman, dù chưa im tiếng súng, người dân địa phương tìm mọi cách khắc phục hậu quả chiến tranh tùy theo khả năng. Còn tại Irpin, chính quyền có thể trông cậy vào hảo tâm của các đối tác nước ngoài : Bị quân đội Nga chiếm đóng trong bốn tháng và là nơi đã diễn ra nhiều trận đánh khốc liệt, thành phố Lyman-Donbass, miền Đông Ukraina vẫn mang nhiều vết thương chiến tranh. Hệ thống đường ống dẫn ga lộ thiên bị hư hại. Công nhân đang phải khắc phục hậu quả sau nhiều đợt oanh kích của quân Nga. Sergueii là một trong những số đó. Anh cố gắng sửa chữa để cung cấp ga 7 ngày trên 7 cho dân cư thành phố và biết rằng giao tranh vẫn đang diễn ra cách đấy không xa. Còn tại Irpin, ngoại ô thủ đô Kiev, người ta bắt đầu dỡ những đống gạch đổ nát từ những khu chung cư bị trúng bom. Ngay từ những ngày đầu chiến tranh, Irpin đã cản đường quân Nga tiến vào thủ đô. Nhờ vậy Irpin được  tổng thống Volodymyr Zelenski trao tặng danh hiệu « thành phố anh hùng ». Kiev đã cam kết giúp Irpin tái thiết. Thị trưởng thành phố vẫn mỏi mòn chờ đợi những khoản trợ giúp đó của chính phủ. Trái lại Irpin đã được các đối tác quốc tế nhiệt tình giúp đỡ. Thành phố Caiscais của Bồ Đào Nha kết nghĩa với Irpin đã huy động hơn nửa triệu euro cho công cuộc tái thiết. Một công ty của Áo hiện diện lâu năm tại Ukraina giúp thành phố này xây dựng lại một trường học. Một tập đoàn dầu hỏa tạo điều kiện cho 1.500 học sinh trở lại trường lớp. Litva giúp xây lại một nhà trẻ của thành phố và Irpin bắt tay ngay vào việc. Theo lời thị trưởng thành phố, cần có những kết quả cụ thể ngay lập tức để chứng minh với các nhà tài trợ về tính nghiêm túc của bên được giúp đỡ. Ông kỳ vọng Irpin là một thí điểm của các công trình tái thiết Ukraina. Tháng 6 năm ngoái nhiều lãnh đạo quốc tế đã đến thăm thành phố này để tỏ tình liên đới với Irpin và tới nay hơn 80 % dân cư đã trở về để làm lại tất cả từ đầu.       Tái thiết trước khi vãn hồi hòa bình, một hình thức kháng cự Ukraina là quốc gia hiếm thấy trên thế giới đã lao vào công cuộc tái thiết đất nước trong lúc báo động phòng không vẫn dồn dập từ ở thủ đô Kiev cho đến các vùng ở miền Nam, miền Đông…Khu vực biên giới phía bắc sát với Belarus thì được đặt trong tình trạng « báo động » thường trực trước nguy cơ chính quyền Minsk nhập cuộc, mở thêm một mặt trận ở phương Bắc tiếp sức cho quân đội Nga. Tại sao phương Tây và những đồng minh của Kiev đã tính đến giai đoạn hậu chiến tranh ? François Grunewald giám đốc cơ quan tư vấn chuyên về các chương trình tái thiến URD của Pháp ghi nhận thứ nhất, đối với người Ukraina họ bắt tay vào việc ngay khi có điều kiện, bởi xây dựng lại là điều sống còn : người dân cần nhà để ở, cần phục hồi hệ thống điện, ga và nước. Đương nhiên dân Ukraina biết rằng, Nga vẫn có thể lại dội bom, lại đưa chiến xa vào các thành phố vừa được xây dựng lại. Thứ hai, nhìn từ góc độ của người dân Ukraina xây dựng lại đất nước trước khi im tiếng súng hàm ý Ukraina sẽ không bao giờ đầu hàng. Hơn nữa đây còn là một vấn đề tâm lý như ông Grunewald giải thích trên đài truyền hình Arte bởi lao vào tái thiết đất nước giúp mọi người hy vọng sẽ lại được sống trong hòa bình, sẽ lại được trở về nhà để xây dựng lại cuộc sống.  Về phần Laurent Germain, tổng giám đốc Egis hiện diện lâu năm tại Ukraina trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ thì cho rằng, Âu, Mỹ đã cam kết viện trợ cho Ukraina hơn 100 tỷ đô la dưới hình thức viện trợ tài chính, quân sự, nhân đạo : đó là một tín hiệu mạnh về mặt địa chính trị và ngoại giao. Song, không thể phủ nhận qua các khoản viện trợ cho Ukraina ngay giữa các nước không khối Tây phương cũng đang lao vào một cuộc cạnh tranh để tranh giành ảnh hưởng với Kiev. Ảnh hưởng đó không chỉ giới hạn ở các hợp đồng, mà đấy còn là ảnh hưởng về chính trị của Bruxelles hay Washington với Kiev sau này.  Ai cũng biết con đường để Ukraina được kết nạp vào Liên Hiệp Châu Âu còn đầy chông gai. Điều đó không cấm cản Bruxelles công nhận quy chế ứng viên của Ukraina. Christine Dugoin Clément, trường thương mại IAE trực thuộc đại học Sorbonne Paris trên đài truyền hình Arte ghi nhận : mỗi quốc gia luôn nghĩ đến lợi ích của riêng mình, của các doanh nghiệp trong nước khi đứng ra cam kết tài trợ một chương trình tái thiết. Điều này lại càng đúng hơn nữa khi mà chương trình tái thiết đó lên tới hàng trăm tỷ đô la.
    2/28/2023
    9:20
  • Một năm chiến tranh : Sức kháng cự của kinh tế Nga và Ukraina
    Tên lửa, xe tăng, đại bác của Nga không diệt được các doanh nghiệp Ukraina. Về phía Nga, nền kinh tế thứ 9 trên thế giới không bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Phép lạ nào giúp kinh tế Ukraina vẫn cầm cự dưới tác động của chiến tranh ? Nhờ đâu kinh tế Nga vẫn trụ được sau 9 đợt trừng phạt liên tiếp của phương Tây ? Một lần nữa các câu hỏi về hiệu quả của trừng phạt, cấm vận Nga lại dấy lên. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế trong báo cáo công bố ngày 31/01/2023 thẩm định tổng sản phẩm nội địa Ukraina trong năm 2022 giảm 34 % do tác động chiến tranh. GDPcủa Nga giảm 2,2 % : « nhẹ hơn nhiều » so với đợt suy thoái (-7,9%) hồi 2009 dưới tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đánh sập kinh tế Ukraina : Nga thất bại Sau một năm chiến tranh, nhiều thành phố từ Mariupol đến Kharkiv hay Kherson đã tan hoang. Quân đội Nga liên tục nhắm vào các nhà máy điện Ukraina. Cuối 2022, thống kê của Kiev ghi nhận : gần 150.000 khu dân cư bị thiệt hại, 150 cây cầu bị đánh sập, 330 bệnh viện bị trúng bom, gần 3.000 trường học chỉ còn là những đống gạch đổ nát, gần 600 cơ quan hành chính bị tàn phá hoặc bị quân đội Nga trưng dụng ở những vùng bị chiếm đóng. Từ 30% đến 40% diện tích đất canh tác của một trong những vựa ngũ cốc trên thế giới bị nhiễm mìn. Tại khu vực miền đông, lá phổi công nghiệp của Ukraina, cả một mảng lớn các hoạt động kinh tế bị tê liệt. Trên đài truyền hình Pháp BFM chuyên gia kinh tế Nicolas Bouzou điều hành công ty vấn Asterès nhìn « cốc nước nửa đầy », khi nêu bật trước ngần ấy những « tai họa » một số doanh nghiệp Ukraina vẫn tìm được lối thoát : Nicolas Bouzou : « Năm ngoái sản xuất của Ukraina giảm hơn 30 % đây là một mức độ vô cùng nghiêm trọng. Cần biết rằng Ukraina mất đi một phần các nguồn lao động : thanh niên thì bị điều ra chiến trường, phụ nữ trẻ em thì ra nước ngoài chạy trốn chiến tranh. Lực lượng lao động bị giảm mạnh. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp kháng cự khá tốt nhờ giảm lương của nhân viên, nhờ tổ chức lại, nhờ Ukraina có một mạng lưới internet và các công cụ kỹ thuật số rất tốt. Thêm vào đó hệ thống đường sắt quốc gia hoạt động rất hiệu quả. Tổng thống Zelensky xem nhân viên tập đoàn đường sắt là một “đội lính” thứ hai. Nhờ họ mà hệ thống phân phối không bị đứt, gẫy … Với tất cả các yếu tố nói trên, một số công ty Ukraina vẫn tiếp tục xuất khẩu ». Trong chiến tranh mà nhiều sự kiện như hội chợ sách quốc tế vẫn được tổ chức tại thủ đô Kiev và ở những vùng xa các mặt trận nóng. Các công ty tuyển dụng nhân viên hoạt động rất mạnh theo lời giám đốc cơ quan tư vấn Asterès. Đương nhiên kinh tế Ukraina cầm cự được nhờ viện quốc tế : Sau Hoa Kỳ, Liên Âu là điểm tựa thứ nhì của chính quyền Kiev. Bruxelles đã cấp 8 tỷ đô la cho Kiev trong năm 2022 và dự trù 17 tỷ trong năm nay, đó là chưa kể các khoản viện trợ nhân đạo và quân sự.  Sức kháng cự của kinh tế Nga : « Vật thể lạ » Tuy nhiên mọi chú ý dồn về phía Nga. Trong lịch sử kinh tế đương đại, chưa một quốc gia nào lãnh những đòn trừng phạt nặng như Liên bang Nga hiện nay. Liên Hiệp Châu Âu đang chuẩn bị đợt trừng phạt thứ 10 kể từ khi Nga xâm chiếm Ukraina. Châu Âu, Mỹ, Canada, Úc và Nhật nhất trí « nhắm » vào xuất nhập khẩu dầu khí của Nga, một lĩnh vực chiếm từ 15% đến 20 % GDP và bảo đảm 40 % ngân sách quốc gia. Chỉ hai ngày sau chiến tranh, Nga bị loại khỏi hệ thống quốc tế thanh toán ngân hàng SWIFT, 300 tỷ đô la dự trữ ngoại tệ của Ngân Hàng Trung Ương Nga tại Âu Mỹ bị phong tỏa.  Vậy mà phát biểu tháng 12/2022 tổng thống Vladimir Putin tự hào « phá vỡ âm mưu  của phương Tây muốn hạ gục » kinh tế Liên Bang Nga. GDP của Nga dưới tác động của những đòn trừng phạt quốc tế được ví như « vũ khí hạng nặng » giảm 2,2 % theo thống kê của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF và 2,1 % theo thống kê Rosstat của Nga. Đơn vị tiền tệ quốc gia đã ổn định trở lại. Ngân Hàng Trung Ương với « nữ tướng » Elvira Nabioullina đứng đầu, đã kềm hãm được lạm phát. Trả lời đài phát thanh France Culture Sébastien Jean chuyên gia về thương mại quốc tế trường CNAM – Học Viện Quốc Gia về Nghệ Thuật và Nghề Nghiệp - Paris nêu bật những dấu hiệu cho thấy kịch bản kinh tế Nga sụp đổ hoàn toàn không xảy ra. Sébastien Jean : « Đúng là trong giai đoạn đầu đồng rúp mất giá, có lúc mất hẳn 1/3 trị giá so với đô la nhưng từ đó đến nay đơn vị tiền tệ của Nga hồi phục. Tỷ giá hối đoái tăng lên trở lại gần bằng với thời điểm trước chiến tranh Ukraina. Xuất nhập khẩu của Nga cũng vậy : trong những tuần lễ đầu khi lệnh trừng phạt được ban hành, nhập khẩu của Nga hoàn toàn sụp đổ, kim ngạch xuất khẩu tuy nhiên vững vàng nhờ dầu khí, nông phẩm, khoáng sản … Nhưng trong gần một năm qua nhiều con đường khác đã khai mở : chẳng hạn như xuất khẩu qua trung gian một số nước bạn của Matxcơva, trong đó có Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỹ hay Armenia, Azerbaijan … » Trừng phạt Kremlin nhưng phương Tây rót gần 250 tỷ đô la cho nước Nga Vào lúc phương Tây rầm rộ hô hào « cấm vận » kinh tế Nga, cấm giao thương với Nga thì tính đến cuối tháng 12/2022 châu Âu vẫn mua dầu khí của Nga và qua đó thanh toán 250 tỷ đô la (theo Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế) cho các tập đoàn dầu khí của Nga và một phần trong số tiền khổng lồ đó là nhằm đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Đành rằng trong năm 2022 Liên Âu đã giảm mạnh mức độ lệ thuộc vào khí đốt của Nga, nhưng phải đợi đến ngày  05/12/2022 và 05/02/2023 châu Âu mới thực sự « khóa » van dầu của Nga. Nếu như các tập đoàn dầu khí Nga mất dần thị trường châu Âu thì đổi lại những Gazprom hay Rosneft … đã tìm được những điểm tựa mới là Ấn Độ hay Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu dầu hỏa của Nga với Trung Quốc tăng 48 % trong năm 2022. Cuộc tranh luận về tính hiệu quả của các biện pháp trừng phạt kinh tế Nga một lần nữa lại được nêu ra. Thậm chí có nhiều tiếng nói cho rằng Liên Âu mạnh tay đánh vào ngân sách của Matxcơva mà không trông thấy rằng đó là những đòn « gậy ông đập lưng ông » : năng lượng, nguyên liệu, nông phẩm …tăng cao đe dọa tăng trưởng của chính mình. Nicolas Bouzou cơ quan tư vấn Asterès không hoàn toàn đồng ý với lập luận này. Bằng chứng rõ rệt nhất là viện thống kê quốc gia Rosstat hôm 17/02/2023 đã hoãn cuộc họp báo công bố thống kê kinh tế trong năm 2022 : Nicolas Bouzou : « Đúng là có những biện pháp trừng phạt không mang lại những kết quả như phương Tây mong đợi. Các chương trình nhằm cô lập Nga trên thương trường không hiệu quả lắm do Matxcơva đã nhanh chóng dựa vào Bắc Kinh. Quan hệ đôi bên chưa bao giờ được mở rộng như ở thời điểm này. Thế nhưng có những lĩnh vực mà Nga không có thể trông cậy nhiều vào Trung Quốc thí dụ như là về công nghệ bán dẫn. Vì bị phương Tây phong tỏa cỗ máy sản xuất vũ khí của Nga không thể hoạt động hết công suất. Các biện pháp trừng phạt tác hại đến nền công nghiệp quốc phòng của Nga ». Thuốc độc ngấm lâu Về phần Agathe Demarais, giám đốc văn phòng dự báo của Economist Intelligence Unit-trực thuộc tuần báo kinh tế Anh, The Economist, bà giải thích rõ hơn về giới hạn trong hợp tác giữa Matxcơva và Bắc Kinh và không mấy lạc quan về viễn cảnh kinh tế chóng phục hồi.  Agathe Demarais : « Liên quan đến công nghệ bán dẫn, Nga trông cậy nhiều vào Trung Quốc thế nhưng bản thân Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với chính sách trừng phạt của Washington : Mỹ đang siết chặt các hoạt động bán công nghệ cao, cung cấp linh kiện bán dẫn hiện đại nhất cho Trung Quốc. Thêm vào đó là hiện tượng một phần lớn các chuyên gia của Nga về tin học, về các công nghệ mới đã sơ tán từ khi Matxcơva xâm chiếm Ukraina. Nhìn rộng ra hơn thì từ 10 năm nay giới phân tích báo động kinh tế Nga gặp khó khăn do dân số sụt giảm, năng suất lao động thấp. Thành thử viễn cảnh kinh tế của Nga vốn đã ảm đạm trước khi nổ ra chiến tranh, giờ đây tình hình lại càng đen tối thêm nữa. Chiến tranh Ukraina chỉ làm lộ rõ thêm thực tế này mà thôi ». Trở lại với câu hỏi chính sách trừng phạt kinh tế Nga có hiệu quả hay không Agathe Demarais cho rằng trước khi đánh giá về mức độ « hiệu quả » cần phải thẩm định lại mục tiêu trừng phạt Nga là gì ? Agathe Demarais  : « Mục tiêu thứ nhất là bắn đi tín hiệu phương Tây đoàn kết một lòng yểm trợ Ukraina và tôi nghĩ rằng Nga đã bất ngờ vì điều đó. Về điểm này phương Tây đã thành công. Điểm thứ nhì, tôi không nghĩ rằng Âu Mỹ muốn trông thấy kinh tế Nga gục ngã như là kinh tế của Venezuela. Kịch bản nền kinh tế thứ 9 của thế giới tan rã là điều không tưởng. Qua các đòn trừng phạt, phương Tây nhắm vào cỗ máy tài trợ chiến tranh của Matxcơva, muốn hạn chế khả năng chế tạo vũ khí của Nga. Thâm hụt ngân sách của Nga tăng lên, quỹ đối phó với tình huống bất ngờ của Nga giảm sụt : có thể nói mục tiêu thứ hai cũng đã đạt được. Về mục đích thứ ba là về lâu về dài gây tác hại cho nền công nghiệp dầu khí của Nga : để khai thác dầu khí và xuất khẩu năng lượng Nga cần công nghệ của phương Tây, cần tìm kiếm thêm các mỏ dầu mới. Nhưng dưới tác động của lệnh trừng phạt, các dự án đó bị chựng lại. Hiện nay Nga chiếm 30 % thị phần dầu khí thế giới, tỷ lệ này rơi xuống còn 15 % vào quãng năm 2030. Nói cách khác, trong tương lai thế áp đảo của Nga trên thị trường dầu khí thế giới sẽ bị đe dọa ». Julien Nocetti giảng viên trường quân sự Saint Cyr của Pháp, cộng tác viên của Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI cho rằng chính nhờ cấm vận đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao và linh kiện bán dẫn mà cỗ máy sản xuất vũ khí của Nga phải hoạt động chậm lại, ít ra là không như chủ nhân điện Kremlin mong muốn : Julien Nocetti : « Cốt lõi của vấn đề ở đây là phụ tùng bán dẫn. Liệu rằng Nga có thể lách các lệnh phong tỏa của phương Tây hay không chẳng hạn như là trông cậy vào công nghệ, vào chip điện tử của Bắc Triều Tiên ? Nếu như câu trả lời là có thì chúng ta biết rằng Bắc Triều Tiên đã tiến bộ hơn rất nhiều. Trên thực tế Nga phụ thuộc vào linh kiện điện tử của phương Tây, của Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan và những đối tác này áp dụng lệnh trừng phạt nhắm vào Matxcơva. Trước mắt Nga không tiếp cận được với công nghệ cao, mất nguồn cung cấp chip điện tử. Hệ quả kèm theo là ngành công nghiệp sản xuất vũ khí của Nga bị mắc kẹt, không thể chế tạo thêm tên lửa hay xe tăng » … Sau một năm chiến tranh đang diễn ra trên lãnh thổ Ukraina, mẫu số chung duy nhất giữa Kiev và Matxcơva là cả hai cùng đã có khả năng nhanh chóng thích nghi với tình huống. Dù vậy thực tế cho thấy Ukraina cần từ 138 đến 500 tỷ đô la cho công cuộc tái thiết một khi im tiếng súng. Ukraina có thể tái thiết cơ sở hạ tầng và thiệt hại vật chất có thể dễ dàng được khắc phục, những mất mát về tinh thần, những vết hằn chiến tranh để lại thì không. Còn về phía Nga, giới quan sát cho rằng các đòn trừng phạt hiện nay là một thứ « độc dược ngấm lâu » mà hậu quả sẽ chỉ được trông thấy từ 5 đến 10 năm nữa. Hai lĩnh vực bị tổn hại nhiều hơn cả sẽ là ngành công nghiệp dầu khí và chế tạo vũ khí : hai con gà đẻ trứng vàng của kinh tế Nga. Đương nhiên là trong giai đoạn tái thiết kinh tế, Nga có thể trông cậy nhiều vào tình hữu nghị vô bờ bến của Bắc Kinh. Nhưng  Trung Quốc chẳng cho ai vay không bao giờ. Matxcơva không là một ngoại lệ, như Tatiana Kastouéva-Jean, Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI ghi nhận qua bài trả lời phỏng vấn báo La Croix hôm 19/02/2022.
    2/21/2023
    10:15

Stazioni simili

Su TẠP CHÍ KINH TẾ

Pagina web della stazione

Ascolta TẠP CHÍ KINH TẾ, RTL 102.5 FM e tante altre stazioni da tutto il mondo con l’applicazione di radio.it

TẠP CHÍ KINH TẾ

TẠP CHÍ KINH TẾ

Scarica ora gratuitamente e ascolta con semplicità la radio e i podcast.

Google Play StoreApp Store

TẠP CHÍ KINH TẾ: Stazioni correlate