Partner im RedaktionsNetzwerk Deutschland

TẠP CHÍ ÂM NHẠC

Podcast TẠP CHÍ ÂM NHẠC
Podcast TẠP CHÍ ÂM NHẠC

TẠP CHÍ ÂM NHẠC

aggiungere

Episodi disponibili

5 risultati 24
  • Khi các thần tượng nhạc Ý hẹn gặp nhau ở Paris
    ''Dolce Vita'' là chủ đề đêm nhạc hội tụ các giọng ca Ý lẫy lừng của những năm 1980. Vào ngày 15/04/2023, hơn 10 nghệ sĩ và ban nhạc Ý tề tựu ở Paris để biểu diễn trên cùng một sân khấu. Cũng nhân dịp này, tuyển tập mang tựa đề ''Made in Italy'' được phát hành trực tuyến, bao gồm hầu hết các bản nhạc thịnh hành cách đây bốn thập niên vào thời kỳ cực thịnh của phong trào nhạc nhảy của Ý (Italo Disco). Trước đây tại Pháp, một số nghệ sĩ Ý như cô ca sĩ Sabrina từng tham gia vòng lưu diễn các thần tượng mang chủ đề ''Stars 80'' quy tụ rất nhiều ngôi sao ca nhạc ăn khách trên thị trường châu Âu thập niên 1980. Thế nhưng, có thể nói đây là lần đầu tiên, Paris tập hợp được trong hơn hai tiếng đồng hồ một thành phần nghệ sĩ hùng hậu trên sân khấu Accor Arena (nhà hát Bercy cũ), toàn bộ các giọng ca biểu diễn trong đêm nhạc chủ đề này, đều đến từ nước Ý. Nhờ có sự đồng ý về mặt tác quyền của nhà sản xuất Pierluigi Gombini (đồng thời là tác giả của các nhạc phẩm nổi tiếng ''I like Chopin'' cũng như ''Dolce Vita''), đêm nhạc Ý đầu tiên này làm sống lại các giai điệu (Italo Disco) của các danh ca Gazebo, Spagna, P.Lion, Ryan Paris hay âm thanh vui tươi của các nhóm Ricchi E Poveri, Righeira, Moonray …... các bài hát thịnh hành không những tại Ý mà còn được phổ biến tại hầu hết các hộp đêm, sàn nhảy trên khắp châu Âu thời bấy giờ. Italo Disco, còn thường được gọi là nhạc kích động hay nhạc nhảy của Ý xuất hiện tại các nước Tây Âu vào cuối những năm 1970, đầu thập niên 1980. Tên gọi này được gán cho nhà sản xuất Bernhard Mikulski, người sáng lập hãng đĩa ZYX Music của Đức. Trào lưu nhạc nhảy trở nên phổ biến tại Ý cũng như tại Châu Âu trong gần một thập niên (từ năm 1982 đến 1988) để rồi thoái trào nhường chỗ lại cho ''house music'' vào đầu những năm 1990. Tiếng đàn ''I like Chopin'' bán hơn 8 triệu bản Tuy thuộc cùng một trường phái với nhạc Disco Anh Mỹ (Bee Gees, Donna Summer, Gloria Gaynor ….) nhưng nhạc nhảy của Ý có thêm nhiều âm thanh điện tử, dễ nghe nhờ giai điệu ngọt ngào quyến rũ, dễ nhớ nhờ ca từ đơn giản, phát âm dễ dàng. Do là một dòng nhạc chủ yếu nhắm váo thị trường xuất khẩu, cho nên đa phần nhạc nhảy của Ý thường được hát bằng tiếng Anh, giới nghệ sĩ Italo Disco cho dù là người Ý cũng thường lấy nghệ danh tiếng Anh : đôi khi đặt tên đơn thuần qua cách chơi chữ, rồi phiên âm sao cho thật dễ hiểu, dễ đọc. Đó là trường hợp của các nghệ sĩ như Ryan Paris, Gary Low, Johnson Righeira, Baltimora trong suốt những năm 1980. Về nền tảng, nhạc nhảy của Ý (Italo Disco) bắt nguồn từ giữa những năm 1970, khi nhà sản xuất kiêm tác giả người Ý Giorgio Moroder quyết định từ bỏ các nhạc cụ truyền thống để chuyển sang khai thác cách tạo âm thanh mới lạ qua máy móc điện tử. Thành công trên tột đỉnh vào năm 1977, nhờ sáng tác cho Donna Summer nhạc phẩm "I Feel Love", Giorgio Moroder cùng với một số nghệ sĩ cùng thời (Kraftwerk của Đức, Jean-Michel Jarre hay Marc Cerrone của Pháp) mở ra một kỷ nguyên mới, khi toàn bộ nhạc nền được phối bằng nhạc cụ điện tử. Riêng tại châu Âu, dòng nhạc nhảy của Ý với âm thanh đặc thù, bắt đầu trỗi dậy vào năm 1982, qua việc phát hành nhiều bài hát ăn khách. Trong số này nhạc phẩm "I Like Chopin" của Gazebo với khúc dạo đầu bằng tiếng dương cầm ngọt ngào và đoạn hát dễ nhớ chỉ gồm 3 chữ, phá kỷ lục số bán với hơn 8 triệu bản trên toàn thế giới. Trong tiếng Việt, bài này từng được nhiều ca sĩ ghi âm lại với tựa đề ''Còn nhớ Chopin''. Thành công này mở đường cho hàng loạt nghệ sĩ Ý theo phong trào hát tiếng Anh (1983-1989) như Moon Ray, Savage, Tom Hooker và Ken Laszlo. Giai điệu ''The night'' của Valerie Dore thành công vang dội ở Châu Âu trong khi "Dolce Vita" của Ryan Paris, ''Vamos a la Playa'' của nhóm Righeira (hát tiếng Tây Ban Nha nhưng lại là của Ý) hay diệu cha cha của nhóm Finzi Kontini đều thành công trên trên thị trường quốc tế. Phiên bản tiếng Việt của bài hát ăn khách của nhóm Finzi Kontini từng được nữ ca sĩ Lưu Bích ghi âm lại Nhạc nhảy của Ý trong giai đoạn huy hoàng Tại Pháp, phong trào này liên tục ăn khách với nhiều bản nhạc khác nhau được phát hành qua video clip (Raf, Baltimora, Den Harrow, Valerie Dore …..) đến mức nhạc phẩm ''Dream'' của nghệ sĩ P. Lion trở thành nhạc hiệu chính thức của chương trình Top 50 (bảng xếp hạng hàng tuần của 50 ca khúc ăn khách nhất thị trường Pháp) kể từ tháng 11/1984. Từ nước Ý, trào lưu này nhanh chóng chinh phục Tây Âu. Dòng nhạc nhảy của Ý trở nên cực thịnh song song với dòng nhạc pop và new wave của Đức như Sandra, C.C Catch, Modern Talking, Bad Boys Blue và sau đó nữa là Blue System. Cả hai dòng nhạc này chinh phục luôn cả nước Nga và khối Đông Âu, vốn là những quốc gia còn khép kín so với các nước Tây Âu trước năm 1989. Tuy thành công ở châu Âu, nhưng nhạc nhảy của Ý ngay trong thời kỳ hoàng kim lại không chinh phục được Vương quốc Anh cũng như thị trường Bắc Mỹ. Italo Disco từng bị nhiều nhà phê bình chỉ trích, do tiếng nhạc quá ''thương mại'', còn ca từ đơn giản đến mức trở nên ngây ngô, ngốc ngếch. Cho dù các nhóm Ý có hát chuẩn tiếng Anh, nhưng nội dung (nếu có) cũng như giai điệu vẫn chưa hợp với thị hiếu của công chúng Anh Mỹ. Thị trường Hoa Kỳ cũng dùng thuật ngữ Euro Beat để tránh sử dụng chữ Disco, do nhạc Disco thường bị chê bai nhiều hơn là khen ngợi. Quy định chung nào cũng có vài trường hợp ngoại lệ, nữ ca sĩ Spagna (có phong cách gần giống với Madonna) thành công với ''Easy Lady'' : gần 2 triệu bản vào năm 1986). Còn Sabrina thì lập kỷ lục số bán hơn 3 triệu bản với nhạc phẩm ''Boys'' (Summertime Love), bắt chước kiểu mẫu của ca sĩ người Anh Samantha Fox. Bài hát này chiếm hạng đầu tại Pháp và hạng 3 trên thị trường Anh. Về phần nhạc phẩm "Self Control" của ca sĩ người Ý Raf, bài hát này khi được ca sĩ Mỹ Laura Branigan ghi âm lại, lọt vào Top Ten Hoa Kỳ, cũng như bản cover tiếng Anh sau đó nhạc phẩm ''Gloria'' của danh ca Umberto Tozzi. Nhạc nhảy của Ý thoái trào từ năm 1989 trở đi, nhường chỗ lại cho các dòng nhạc EuroDance hay House Music với nhịp điệu dồn dập hơn, bao phủ bởi nhiều lớp âm thanh điện tử, qua các nhóm như Ace of Base, Corona, Culture Beat, 2 Unlimited, Dr. Alban hoặc Haddaway ….. Italo Disco có dấu hiệu hồi sinh vào giữa những năm 2000 nhờ các nghệ sĩ tiêu biểu như Sally Shapiro, Chromatics, Glass Candy, cũng như hãng ghi âm độc lập như ''Do It Better''. Khách hâm mộ tinh ý sẽ nhận ra ngay cụm từ này xuất hiện trong video clip ca nhạc ''Papa don't Preach'' của Madonna phát hành vào cuối năm 1986. Đêm nhạc Dolce Vita 80 do chỉ kéo dài trong hai tiếng đồng hồ cho nên khó thể nào mà triệu tập được hết các nghệ sĩ thành danh vượt bậc những năm 1980 như trường hợp của nam danh ca Umberto Tozzi hay ban song ca Al Bano & Romina Power. Nếu thành công, hẳn chắc đêm diễn này sẽ mở đường cho nhiều dự án khác. Trong tâm tư hoài niệm, người hâm mộ vẫn còn lưu luyến ''cuộc sống Dolce Vita ngọt ngào'', nơi cất giữ mùi hương ''Felicità'', thoáng dư âm hạnh phúc thuở nào.
    3/11/2023
    9:06
  • Di sản âm nhạc của nhóm Carpenters
    Phim tài liệu, sách nghiên cứu, đêm nhạc chủ đề, album phòng thu …. Đó là những dự án quan trọng nhất trong số các sinh hoạt kỷ niệm 40 năm ngày giỗ của Karen Carpenter. Với góc nhìn trìu mến lạc quan, đa số các dự án này kể cả các buổi hòa nhạc đều được lên chương trình vào đầu tháng Ba nhân dịp sinh nhật của Karen (1950-1983), thay vì tháng Hai vào ngày nữ danh ca đột ngột qua đời. Trong số các dự án hàng đầu, có bộ phim tài liệu ''Starving for Perfection'' của đạo diễn nổi tiếng người Mỹ Randy Martin phản ánh những áp lực quá mạnh của làng giải trí (showbiz) làm cho nữ ca sĩ bị xuống tinh thần, chứng biếng ăn của Karen theo thời gian càng thêm trầm trọng. Bên cạnh đó, còn có quyển sách ''Carpenters : The Musical Legacy'' của tác giả trứ danh Lucy O'Brien, được phát hành vào đầu tháng 03/2023. Thay vì đơn thuần là một quyển sách tiểu sử, tác phẩm này thông qua nhận định của giới phê bình, của những người từng làm việc với nhóm Carpenters (Karen và Richard Carpenter) phản ánh tầm ảnh hưởng của ban song ca với các thế hệ sau. Tác giả Lucy O'Brien từng dành nguyên một chương sách quan trọng cho Karen Carpenter trong quyển tiểu luận ăn khách trước đây của bà mang tựa đề "The Definitive History of Women in Popular Music". Trên tột đỉnh danh vọng, đà thành công của nhóm Carpenters đột ngột bị gián đoạn với cái chết của Karen Carpenter vào năm 1983, cách đây đúng 40 năm.Theo nhà văn này, tuy chỉ hoạt động trong làng giải trí trong vòng hơn một thập niên (1969-1983), nhưng Karen Carpenter đã để lại dấu ấn sâu đậm khó phai, góp phần thay đổi cục diện của lịch sử nhạc phổ thông, ảnh hưởng ấy tiếp tục kéo dài, cho tới tận ngày nay. Từ hai thành viên ban đầu, nhóm Carpenters nay chỉ còn có một người duy nhất là Richard Carpenter. Ngày Karen vĩnh viễn ra đi, ban song ca The Carpenters coi như đã mất lẽ sống. Tài hòa âm, chơi đàn piano của Richard, trở nên vô hiệu với cái chết của Karen. Thế nhưng, Richard vẫn tiếp tục làm sống những gì cô em gái để lại. Album độc tấu dương cầm với tựa đề ''Richard Carpenter's Piano Songbook'' được phát hành đúng vào sinh nhật của Karen. Một cách để hồi tưởng lại những kỷ niệm đẹp nhất với cô em gái. Vầng hào quang chợt tắt khi Karen vĩnh biệt cõi đời, nhưng di sản của nhóm Carpenters, bất kể thời gian vẫn mãi sáng ngời. Trong vòng 14 năm sự nghiệp, nhóm The Carpenters đã đoạt 5 giảiGrammy, ghi âm 10 album và bán hơn 100 triệu đĩa hát. Ít có ban nhạc nào ăn khách đều đặn, liên tục như ban song ca người Mỹ The Carpenters, số lượng đĩa hát của nhóm được bán sau ngày Karen qua đời, nhiều không thua gì lúc sinh thời. Ngay từ đầu những năm 1970, khi sự nghiệp của ban song ca cất cánh, các giai điệu ăn khách Carpenters đã cho ra đời nhiều bản phóng tác kể cả tiếng Pháp hay tiếng Việt. Trong số này có tình khúc ''Close To You'' (được phát hành vào giữa năm 1970) thuộc vào hạng kinh điển, ngoài là ca khúc đầu tiên chiếm hạng đầu thị trường Bắc Mỹ, bài hát này còn giúp choo nhóm The Carpenters đoạt danh hiệu nhóm trình diễn xuất sắc, trên tổng số 4 đề cử quan trọng nhân kỳ trao giải Grammy năm 1971. Trong nguyên tác ca khúc "(They Long to Be) Close to You" do hai tác giả Burt Bacharach và Hal David đồng sáng tác. Người đầu tiên hát bài này là diễn viên kiêm ca sĩ Richard Chamberlain, ông ghi âm ca khúc làm nhạc nền cho bộ phim Mỹ ''Twilight of Honor'', phát hành vào năm 1963. Bài hát ít được ai chú ý vì chỉ được phát hành trên mặt B của đĩa nhạc "Blue Guitar" của nghệ sĩ Richard Chamberlain, người sau này thủ vai chính trong loạt phim truyền hình ''Tiếng chim hót trong bụi mận gai'' (nguyên tác ''The Thorn Birds'' của tác giả Colleen McCullough, còn thường được gọi theo bản dịch tiếng Pháp là ''Les oiseaux se cachent pour mourir'' Những con chim ẩn mình chờ chết) Trong số các ca sĩ hát tiếng Pháp ghi âm lại bài này có các giọng ca nữ Lara Fabian, Tina Arena, Claudine Longet. Nam danh ca Sacha Distel từng là bạn thân của Dionne Warwick và Burt Baccarach đã chấp bút đặt thêm lời tiếng Pháp khác cho bài hát này thành nhạc phẩm ‘‘Comme Moi’’. Còn trong tiếng Việt ''Close to You'' từng được phóng tác thành ca khúc ''Tình Mộng Mơ'' qua tiếng hát của nữ ca sĩ Kiều Nga. Nhạc phẩm ''Top of the world'' thì trở thành ''Thiên đường tình yêu''.  Từ bộ vựng tập của nhóm Carpenters, có khá nhiều giai điệu nổi tiếng sau đó nhờ các bản dịch sang tiếng Pháp. Tình khúc ''Yesterday Once More'' hai lần ăn khách trên thị trường Pháp, đầu tiên hết qua phiên bản ''Hier était près de moi'' (Vẫn gần như mới hôm qua) của Claude François, Michèle Torr và phiên bản song ca của Laurent Voulzy với Lénou (con gái của nữ danh ca Nana Mouskouri). ''The End of the World'' qua cách đặt lời của tác giả Trường Kỳ trở thành giai điệu ''Thương nhớ trong mưa''. Trong số các nghệ sĩ từng hát lại dòng nhạc Carpenters có các danh ca Pháp Richard Anthony, Sacha Distel, Henri Salvador hay ca sĩ người Thụy Sĩ Alain Morisod. Những giai điệu thoạt nhìn đơn giản nhưng càng nghe giới yêu nhạc càng cảm nhận nét tinh tế trong từng nốt nhạc lung linh ngời sáng. Trong cách phối nhạc khi thì soft jazz, lúc thì easy listening (trong thập niên cực thịnh của tác giả quá cố Burt Bacharach). Dù là nguyên bản hay phóng tác, dòng nhạc Carpenters vẫn toát lên một ma lực quyến rũ lạ kỳ, âm thanh tiếng nhạc dễ khắc ghi trong tâm trí. Trong tim người hâm mộ, di sản của Carpenters nhờ vậy mà có sức sống ''trường kỳ''.
    3/4/2023
    9:06
  • Khi các nghệ sĩ Pháp phóng tác dòng nhạc celtic
    ''Opéra Celte" là tựa đề tập nhạc mới của nam ca sĩ Vincent Niclo. Album phòng thu thứ 10 này cũng đánh dấu một thập niên thành công trong sự nghiệp của giọng ca tenor người Pháp. Sau khi ghi âm trong khá nhiều thể loại kể cả bán cổ điển, nhạc kịch, nhạc phim, bolero (La Tinh) hay tango mới , lần đầu tiên anh thử giọng với dòng nhạc celtic, nối bước nhiều nghệ sĩ Pháp như Renaud, Joe Dassin, Hugues Aufray và nhất là Nolwenn Leroy. Bao gồm tổng cộng 12 bài hát, tập nhạc ''Opéra Celte'' xen kẽ nhiều giai điệu quen thuộc của xứ Wales, Ai Len, Scotland với các bản dân ca miền Bretagne, miền tây bắc nước Pháp. Đúng với tên gọi của album, các bài hát ở đây hội tụ hai yếu tố chính : lối trình bày đầy kịch tính, hát rất nhiều bằng giọng ngực phóng mạnh về phía trước theo phong cách opera, dù chưa phải là thuần cổ điển nhưng phối nhiều  với nhiều nhạc cụ cổ truyền. Ngoài việc hát bằng thổ ngữ vùng Bretagne, trung thành với thế hệ nghệ sĩ thời trước như Alan Stivell (Tri Martolod) hay ban tam ca Tri Yann (Les 3 Jean), Vincent Niclo còn phối nhạc celtic với sắc màu bán cổ điển ….. Để thực hiện phần ghi âm, ngoài các bản song ca với các ban nhạc có nguyên quán ở vùng Bretagne như Manau, Soldat Louis, Dan Ar Braz, Vincent Niclo còn triệu mời dàn nhạc Bagad Kemper hội tụ trên cùng một sân khấu hơn 40 nhạc sĩ chuyên về bộ trống, kèn túi biniou, kèn ống bombarde. Dàn nhạc này thường tham gia vào các liên hoan như Fest-Rock hay Di sản Celtic, hiểu theo nghĩa rộng nhất .…. Hoà quyện nhạc celtic với âm thanh giao hưởng Trên album mới, nhóm Bagad Kemper đã thực hiện phần ghi âm nhạc nền cho hầu hết các bài hát của Vincent Niclo kể cả giai điệu nổi tiếng ''Amazing Grace'' (Ân phúc diệu kỳ). Đây có lẽ là một trong những bài thánh ca quen thuộc nhất trên thế giới, từng được viết vào thế kỷ XVIII (đầu những năm 1770). Tác giả của bản thánh ca là mục sư người Anh John Newton, nhờ tìm được đức tin mà quy đạo Chúa (Cơ đốc giáo) rồi từ bỏ nghề lái tàu buôn nô lệ. Amazing Grace từng làm nên tên tuổi của nhiều giọng ca huyền thoại, đáng ghi nhớ nhất là phiên bản của Mahalia Jackson hay Jessye Norman.  Bản nhạc ''Amazing Grace'' từng được Hélène Ségara phóng tác sang tiếng Pháp trên tập nhạc chọn lọc mang tựa đề ''Mon pays c'est la Terre'' (Quê hương tôi là Trái Đất). Album này tập hợp các giai điệu truyền thống nổi tiếng nhất, từ Đông sang Tây. Trong số các bài hát ăn khách bắt nguồn từ dòng nhạc celtic, còn có các giai điệu như ''Women of Ireland'' (Mná Nah-Éireann) và nhất là ''Greensleeves'' với phần ghi âm của nữ danh ca quá cố Maurane. Từ giữa những năm 1960, cả hai giai điệu này từng được nhiều nghệ sĩ như Richard Anthony hay Hugues Aufray đặt thêm lời Pháp. Nhưng có lẽ do phần ghi âm được thực hiện một cách riêng lẻ, cho nên ít thu hút sự quan tâm của giới yêu nhạc. Mãi đến hơn nửa thế kỷ sau, vào năm 2011, nhiều bản nhạc dân ca mới thật sự được đề cao trên album chuyên đề ''Bretonne'' (Cô gái miền Bretagne) của Nolwenn Leroy. Dùng một chi tiết để nói lên tổng thể, album này bao gồm nhiều giai điệu celtic, bao trùm ảnh hưởng văn hóa của Ailen, miền Bretagne, vùng cao nguyên Scotland. Khi thể hiện dòng nhạc này, Nolwenn không chọn phong cách new age, mà chủ yếu dùng lối hòa âm rất mộc của dòng nhạc folk, đơn sơ mà vẫn đương đại. Album thứ tư của Nolwenn lập kỷ lục đạt hai lần mức đĩa kim cương với gần hai triệu bản. Phiên bản phóng tác tiếng Pháp (lời của Pierre Delanoe) của nhạc phẩm ''Scarborough Fair'' mở đường cho nhiều nghệ sĩ Pháp thế hệ sau, ghi âm lại bài hát để đời của Simon & Garfunkel.  Phóng tác nhạc Ailen : mỗi người một nét Hầu như vào cùng một thời điểm (2009-2010), danh ca kiêm tác giả Renaud trình làng tập nhạc ''Balade Irlandaise'' (Chuyến du ngoạn Ai Len). Đây là album phòng thu chủ yếu bao gồm các bản phóng tác sang tiếng Pháp những bài dân ca quen thuộc của Ai Len, xưa cũng như nay. Nhân một chuyến lưu diễn từ bắc chí nam Ailen, Renaud lần đầu tiên khám phá các thành phố Shannon, Cork, Galway, Limerick, Dublin, Belfast .....  Renaud bắt đầu sưu tầm nhiều đĩa nhạc, rồi chọn ra 12 giai điệu Ailen mà anh cho là vừa ý nhất. Tác giả người Anh Henri Lœvenbruck chấp bút lược dịch các bài này sang tiếng Pháp. Dựa vào đó, Renaud mới đặt ca từ sao cho hợp với lối diễn đạt của mình cũng như với thành phần thính giả ở Pháp. Được ghi âm tại phòng thu The Windmill Lane ở Dublin, đĩa nhạc này đã thành công trên thị trường khối Pháp ngữ qua cả hai phiên bản của Renaud cũng như của Nolwenn. Ngoài là một dòng nhạc giàu cảm xúc, thế giới celtic còn phong phú tràn đầy hình ảnh. Chỉ cần nghe các giai điệu du dương phím đàn, nhẹ nhàng tiếng sáo, người nghe bỗng thấy hiện về trong tâm trí hình ảnh của những dòng sông yên lành, rừng núi bao la, thảo nguyên bát ngát. Những giai điệu phiêu diêu bay bổng theo những nốt hạc cầm. Các bản phối mộc mở ra khung cảnh hiền hòa của những chân trời tưởng chừng rất xa, hoá ra lại gần, cho tâm hồn bớt trăn trở suy ngẫm, nghe trong tim thoáng đồng cảm dư âm.
    2/25/2023
    9:08
  • Michèle Torr, 60 năm sự nghiệp ca hát
    Nhắc đến Michèle Torr, giới yêu chuộng nhạc Pháp nghĩ tới ngay một trong những giọng ca ăn khách nhất những năm 1970. Nhờ vào một lượng khách hâm mộ đông đảo, sự nghiệp của Michèle Torr cũng như hai bạn diễn Sylvie Vartan và Adamo đã trụ vững trong nhiều thập niên liền. Một bộ toàn tập vừa được phát hành trong tháng 02/2023 nhằm đánh dấu 60 năm sự nghiệp của danh ca người Pháp. Mang tựa đề ''Intégrale Studio'', bộ toàn tập này gồm 22 album phòng thu mà Michèle Torr từng ghi âm trong đời (giai đoạn hoạt động 1964-2019), kể từ khi cô ký hợp đồng với hãng đĩa Mercury vào năm 1963. Với tổng cộng 465 bài hát ghi âm trong 7 thứ tiếng, Michèle Torr tuy không phải lúc nào cũng giành lấy vị trí quán quân, những lại có một chỗ đứng khá vững trong làng nhạc Pháp. Số nghệ sĩ Pháp từng thành danh vào những năm 1960, cho tới nay vẫn còn đi hát, giờ đây có thể được đếm đếm trên đầu ngón tay. Giọng ca miền Provence trong ''Bức ảnh chụp của thế kỷ''  Sinh trưởng tại thị trấn Pertuis, vùng Provence, miền nam nước Pháp, Michèle Torr từ thời còn nhỏ đã thừa hưởng năng khiếu nghệ thuật của thân mẫu. Mẹ cô có một chất giọng thiên phú nhưng vì gia đình không chấp thuận, cho nên bà buộc phải từ bỏ nghề ca hát. Thế nhưng (cũng như trường hợp của hai cha con Serge Lama) giấc mơ sấn khấu này lại được truyền nối cho Michèle Torr. Cô bé học hát với mẹ ở nhà và kể từ năm lên 6 tuổi, cô đoạt giải thưởng đầu tiên nhân một cuộc thi hát dành cho các mầm non địa phương. Đến năm 14 tuổi, Michèle giành lấy hạng nhất với bản nhạc ''Exodus'' (Về miền đất hứa) nhân cuộc thi hát tổ chức tại thành phố Avignon. Giải nhì năm ấy chính là ca sĩ Mireille Mathieu. Cả hai đều thành danh vài năm sau trong làng nhạc Pháp. Nhờ về đầu cuộc thi, Michèle Torr được mời lên thủ đô Paris, hát trong phần mở đầu đợt biểu diễn của thần tượng Jacques Brel tại nhà hát Olympia. Vào năm 16 tuổi (1963), cô ký hợp đồng ghi âm đầu tiên và chủ yếu ghi âm lại nhiều bản nhạc phóng tác từ các bài hát Anh Mỹ, trong đó có ''Only You'' (Loin de vous) của nhóm The Platters hay tình khúc ''It hurts to be sixteen'' (C'est dur d'avoir 16 ans) của Andrea Carroll. Thành danh vào lúc phong trào nhạc trẻ (yéyé) thập niên 1960 đang rộ lên tại Pháp, Michèle Torr sánh vai với nhiều thần tượng nhạc trẻ khác trước khi chuyển hướng, rẽ hẳn sang dòng nhạc nhẹ kể từ giữa thập niên 1970. Điều đó giải thích vì sao Michème Torr có mặt trong tấm hình thường được gọi là ''Bức ảnh của thế kỷ'' do nhà nhiếp ảnh Jean-Marie Perrier thực hiện vào năm 1966 cho tạp chí ''Salut les copains'' (Thân chào các bạn), tập hợp 46 giọng ca trẻ nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Michèle Torr đứng ở hàng thứ tư bên cạnh Sheila (Bang Bang) và France Gall (Poupée de cire, poupée de son). Hai ca sĩ France Gall và Michèle Torr sinh cùng năm 1947, nhỏ hơn nam danh ca Christophe hai tuổi. Christophe, dang dở mối tình đầu đời  Đứng trước mặt Michèle, có hai nam danh ca Claude François và Hervé Vilard. Trong quyển hồi ký ''La Couleur des mots'' (Sắc màu của ca từ), Michèle cho biết thời còn trẻ cô đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm sân khấu khi đi lưu diễn thường xuyên với hai nam ca sĩ này, cho dù Claude François thường có tính khí nóng nảy. Cũng nhân một chuyến lưu diễn ở miền nam nước Pháp, Michèle Torr gặp mặt nam danh ca Christophe. Từ mối quan hệ này, Michèle sinh đứa con trai đầu lòng, nhưng tình yêu của họ không được bền lâu. Chỉ vài năm sau, hai nghệ sĩ này đành phải chia tay nhau. Tuy đánh mất mối tình đầu đời, nhưng bù lại Mihèle Torr tìm được một người bạn trung thành là nhạc sĩ Jean Albertini (1947-1996). Tác giả này đã viết bài ''La plage aux romantiques'' (Biển mộng mơ) cho Pascal Danel, ''Kiss Me'' (Hôn anh) cho C.Jérôme và nhất là đồng sáng tác nhạc phẩm ''Aline'' cho Christophe. Kể từ đầu những năm 1970 cho tới khi ông mất, nhóm sáng tác của Jean Albertini viết nhiều bài hát ăn khách cho Michèle Torr. Giai điệu quen thuộc nhất gắn liền với tên tuổi của giọng ca miền Provence vẫn là bản nhạc ''Emmène-moi danser ce soir'' (tạm dịch Dìu em vào điệu nhảy) lập kỷ lục số bán vào năm 1978. Trong vòng nhiều thập niên, các album phòng thu do Michèle Torr phát hành đều ăn khách đều đặn và liên tục, tính đến nay, đã bán được hơn 30 triệu bản. Tuy ít khi nào chiếm hạng đầu thị trường đĩa hát, nhưng Michèle Torr gầy dựng được hình ảnh của một nghệ sĩ bình dị chân phương, dễ gần gũi với công chúng. Nhờ vào lượng fan hâm mộ trung thành, lịch biểu diễn của Michèle Torr với hơn 200 buổi mỗi năm, hầu như lúc nào cũng chật kín. Bộ toàn tập gồm 22 cuộn album CD mở đầu cho đợt trình diễn khắp nước Pháp. Đợt biểu diễn này sẽ kéo dài cho tới cuối tháng 10/2023 với buổi trình diễn lớn tại nhà hát Folies Bergères ở Paris quận 9. Lời tri ân tựa như một món quà, tình cảm của người hâm mộ như thể không bao giờ phai nhòa, họ chưa một lần lỗi hẹn dù đã 60 năm qua.
    2/18/2023
    9:03
  • Pháp, vùng đất lành cho các tài năng từ vương quốc Bỉ
    Cách đây khoảng hai năm, Mentissa và Antoine Delie đều là những gương mặt xa lạ với công chúng. Chỉ trong một thời gian ngắn, họ đã gầy dựng được một lượng khách hâm mộ đông đảo trong giới yêu nhạc Pháp. Điểm chung giữa hai nghệ sĩ trẻ này là họ đều khởi đầu sự nghiệp tại Pháp, nhưng lại xuất thân từ vương quốc Bỉ. Năm nay 23 tuổi, Mentissa Aziza sinh trưởng ở vùng Flandre Orientale, miền đông nước Bỉ. Từ khi còn nhỏ, Mentissa thích học múa và rất mê thế giới của cheerleeder cũng như nhạc kịch. Đến năm 12 tuổi, Mentissa mới bắt đầu đeo đuổi giấc mơ âm nhạc sau khi khám phá loạt phim truyền hình ''Glee'' (Ca đoàn trung học). Cho dù không được đào tạo tại nhạc viện, nhưng Mentissa đã thật sự gây bất ngờ khi ghi tên vào chương trình thi hát thiếu nhi The Voice Kids, phiên bản của Bỉ. Đây là lần đầu tiên, cô xuất hiện trên đài truyền hình và giành được giải quán quân chương trình này vào năm 14 tuổi. Đến khi trưởng thành, Mentissa thực hiện bước kế tiếp khi tham gia vào cuộc thi hát The Voice năm 2021, nhưng lần này là phiên bản tiếng Pháp (mùa thứ 10). Sau khi gây nhiều ấn tượng tại các vòng loại kể cả thi giấu mặt và thi đấu tay đôi, Mentissa cuối cùng lọt vào vòng chung kết giữa năm 2021, trong đội của huấn luyện viên Viannet. Cho dù Mentissa đã không về đầu cuộc thi (giải nhất năm ấy đã về tay nữ ca sĩ Marghe), nhưng có thể xem nghệ sĩ trẻ tuổi người Bỉ đã thắng đậm, vì trước khi cuộc thi hát thực sự kết thúc, Mentissa đã giành lấy được hợp đồng ghi âm quan trọng đầu tiên trong đời. Đối với một tài năng mới 22 tuổi, cuộc thi ''The Voice'' là một cơ hội, giúp cho Mentissa học hỏi được thêm nhiều kinh nghiệm quý báu, cũng như mang lại cho người nghệ sĩ trẻ này niềm tự tin. Nhờ vào sự chỉ bảo dìu dắt của ca sĩ kiêm tác giả Vianney, Mentissa đã ghi âm album đầu tay mang tựa đề ''La vingtaine'' (Lứa tuổi đôi mươi). Được phát hành vào cuối năm 2022, nhiều bài hát trích từ album này được giới phê bình đánh giá cao, bên cạnh các bản nhạc như ''Exceptionnel'' (Phi thường) hay là ''Petits Princes'' (Những vị hoàng tử bé), đáng ghi nhớ hơn cả vẫn là giai điệu ''Et Bam'' (Nhịp điệu trái tim). Antoine Delie và tuyển tập vinh danh các tác giả người Bỉ Cũng như Mentissa đang thực hiện vòng lưu diễn đầu tiên trong tháng này (02/2023) để giới thiệu album mới, một nghệ sĩ người Bỉ khác cũng hiện đang đi biểu diễn khắp nước Pháp để quảng bá cho album thứ nhì của mình. Năm nay 23 tuổi, Antoine Delie sinh trưởng ở thị trấn Baudour, gần Saint-Ghislain, vùng ngoại ô thành phố Mons, miền nam nước Bỉ. Từ thuở ấu thơ, Antoine cũng như người chị đã học đàn piano, thấm nhuần dòng máu nghệ thuật của gia đình. Ở trường, Antoine học hành rất chăm chỉ, luôn đứng nhất lớp, nhưng lại thường hay bị các bạn cùng lớp bắt nạt vì cái tính ''mít ướt'', con trai mà yếu đuối hay khóc như con gái. Theo lời kể của Antoine, những năm tháng ấy khiến cho anh vốn đã thiếu tự tin lại càng thêm nhút nhát. Có lẽ cũng vì thế, anh ban đầu chọn nghề dạy học, cho đến cái ngày gia đình Antoine ghi tên anh vào cuộc thi The Voice năm 2020 (mùa thứ 9). Cho dù cũng như Mentissa, anh đã không đoạt giải nhất (giải đầu năm ấy về tay nam ca sĩ Abi Bernadoth), nhưng Antoine lại gây nhiều ấn tượng với các thành viên ban giảm khảo, khi trình bày lại các bản phóng tác tiếng Pháp ''Blinding Lights'' của The Weeknd hay ''Get Lucky'' của nhóm Daft Punk với Pharrell Williams.  Sau khi thành công với album đầu tay "Peter Pan" (Không bao giờ lớn) với sự tham gia của nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Chimène Badi, Slimane hay Marc Lavoine … đầu năm nay, Antoine Delie trình làng tuyển tập thứ nhì. Nét độc đáo của album này là dành để vinh danh các nghệ sĩ người Bỉ xưa cũng như nay. Bên cạnh hai giọng ca quá cố là thần tượng Jacques Brel và ca sĩ Maurane, Antoine còn ghi âm lại các bản nhạc nổi tiếng của Lara Fabian, Axelle Red, và nhất là của nam ca sĩ Stromae. Cùng với đồng hương người Bỉ Angèle, Stromae hiện đang dẫn đầu danh sách các đề cử giải thưởng âm nhạc Victoires de la Musique năm nay của Pháp. Nhạc phẩm trích đoạn đầu tiên từ album thứ nhì là bài ''C'est ma vie'', có cả hai bản phối theo lối pop điện tử và hoà âm mộc với đàn ghi ta Hawaï. Video ca nhạc của Antoine có sự tham gia của Adamo do đây là một bản nhạc nguyên tác của danh ca người Bỉ gốc Ý. Điểm chung giữa Mentissa và Antoine là cả hai đều có nhiều nhạc cảm. Đường đời sự nghiệp của hai gương mặt này chỉ mới bắt đầu, nhưng tư chất diễn đạt lúc nào cũng chững chạc, tràn đầy cảm xúc dạt dào.
    2/11/2023
    9:05

Stazioni simili

Su TẠP CHÍ ÂM NHẠC

Pagina web della stazione

Ascolta TẠP CHÍ ÂM NHẠC, RTL 102.5 FM e tante altre stazioni da tutto il mondo con l’applicazione di radio.it

TẠP CHÍ ÂM NHẠC

TẠP CHÍ ÂM NHẠC

Scarica ora gratuitamente e ascolta con semplicità la radio e i podcast.

Google Play StoreApp Store

TẠP CHÍ ÂM NHẠC: Stazioni correlate